Yasheng Huang (Hoàng Á Sinh)
Yasheng Huang (Hoàng Á Sinh)
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Đầu năm nay, nhà kinh tế học Yasheng Huang [Hoàng Á Sinh] (xem bài diễn thuyết TED Talk năm 2011 của ông) tranh luận với Eric X. Li [Lý Thế Mặc] trên tạp chí Foreign Affairs về một vấn đề tương tự bài diễn thuyết TED Talk. TED Blog yêu cầu giáo sư Hoàng mở rộng lập luận của ông trong cuộc đối thoại tiếp tục diễn ra với Li.
Thử hình dung lẫn lộn hai phát ngôn sau đây của một bác sĩ chuyên về
ung thư: 1) “Anh có thể chết vì ung thư” và 2) “Tôi muốn anh chết vì
ung thư.” Khó mà nhận ra sự khác biệt căn bản giữa hai phát ngôn này.
Phát ngôn thứ nhất là một lời tiên đoán – phát ngôn này nói rằng một
việc có thể xảy ra với một số điều kiện nhất định (trong trường hợp này
là chết nếu bị ung thư). Phát ngôn thứ hai là một sở nguyện, một ao ước,
hay một ý muốn về một thế giới theo sở thích cụ thể của một người.
Ai lại có thể phạm một sai lầm căn bản khi nhầm lẫn hai loại phát ngôn này? Nhiều người lắm, trong đó có Eric X. Li, trong bài diễn thuyết TED Talk hôm nay.
Đại luận thuyết của Marx đã ăn sâu vào đầu Li – và đầu tôi thời niên
thiếu và thời thanh niên trong thập niên 1960 và 1970 – là một phát ngôn chuẩn tắc.
Khi Marx nảy ra những tư tưởng về sự tiến hóa của các xã hội loài
người, trên thế giới chưa có một quốc gia nào giống chút đỉnh như chế độ
cộng sản mà ông cổ xúy. Chế độ cộng sản theo hình dung của Marx không
có quyền tư hữu hay bất cứ kiểu quyền sở hữu nào. Tiền cũng không có mặt
trong chế độ đó. Phiên bản chủ nghĩa cộng sản của Marx chưa bao giờ, và
rất có thể sẽ chẳng bao giờ, trở thành hiện thực. Marx “tiên đoán” dựa
trên suy diễn; và những người kế thừa ông tiên đoán bằng cách áp đặt ước
muốn của họ, được thực hiện bằng quyền lực và bạo lực.
Ngược lại, cái luận thuyết dường như được mớm cho Li khi ông là một
“anh chàng hippie Berkeley” thì dựa trên kinh nghiệm thực tế của các vấn
đề con người. Chúng ta đã có hàng trăm năm kinh nghiệm với dân chủ và
hàng trăm quốc gia / năm có các quá trình chuyển tiếp sang dân chủ và
cai trị bằng dân chủ. Phát ngôn cho rằng các quốc gia chuyển sang dân
chủ khi họ giàu lên là một phát ngôn thực chứng – đó
là một tiên đoán dựa trên dữ liệu. Trong thập niên 1960, khoảng 25 phần
trăm các nước trên thế giới có chế độ dân chủ; tỉ lệ hiện nay là 63 phần
trăm. Có rất nhiều trường hợp các chế độ độc tài chuyển sang chế độ dân
chủ hơn là ngược lại. Những nước còn lại trên thế giới đã thể hiện rõ
ràng ý muốn có chế độ dân chủ. Như Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân)
đã cho biết, trong 25 nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Trung
Quốc mà chưa tự do hay tự do một phần, 21 nước sống nhờ tài nguyên thiên
nhiên. Nhưng đó là những ngoại lệ giúp chứng minh quy tắc – các quốc
gia chuyển sang dân chủ khi họ giàu hơn. Ngày nay không có quốc gia nào
được xếp vào nhóm giàu nhất có chế độ toàn trị độc đảng. (Singapore là
một trường hợp chưa rõ ràng, còn nhiều tranh cãi.) Dù Li có thích hay
không, các quốc gia đó dường như đều có đích đến như nhau.
Các nền dân chủ có tham nhũng hay không? Li nghĩ vậy. Ông trích dẫn Chỉ số của Minh bạch Quốc tế (TI) để chứng minh quan điểm của mình. Số liệu TI cho thấy Trung Quốc có thứ hạng cao nhiều chế độ dân chủ. Cũng có lý.
Tôi luôn nghĩ rằng có hơi mỉa mai khi dùng số liệu về tính minh bạch
để biện hộ cho một chế độ chính trị xây trên nền tảng mờ ám. Ngoài
chuyện mỉa mai, nên nhớ rằng bản thân chỉ số TI là sản phẩm của chế độ
chính trị mà Li quá coi thường – chế độ dân chủ (nói cho đúng là dân chủ
kiểu Đức). Điều này nhấn mạnh một điểm căn bản – chúng ta biết rất
nhiều về tham nhũng ở các chế độ dân chủ hơn chúng ta biết về tham nhũng
ở các nước toàn trị vì các chế độ dân chủ, theo định nghĩa, có tính
minh bạch cao hơn và họ có nhiều dữ liệu hơn về tính minh bạch. Tuy tôi
tin những so sánh về tham nhũng giữa các nước dân chủ, việc so sánh một
cách máy móc tham nhũng ở Trung Quốc với tham nhũng ở các chế độ dân
chủ, như Li đã làm rất nhiều lần, là phạm sai lầm căn bản. Phương pháp
của ông nhầm lẫn hai hiệu ứng – mức độ minh bạch của một quốc gia và mức
độ tham nhũng của một quốc gia. Tôi không muốn nói là các chế độ dân
chủ nhất thiết phải trong sạch hơn Trung Quốc; tôi chỉ muốn nói rằng
cách Li dùng dữ liệu của TI không phải căn cứ để rút ra kết luận theo
một trong hai hướng. Cách đúng đắn để rút ra kết luận về vấn đề này là
nhận định rằng với cùng một mức độ minh bạch (và cùng mức độ về nhiều
thứ khác, trong đó có thu nhập), Trung Quốc có – hay không có – tham
nhũng nhiều hơn các chế độ dân chủ.
Chỉ cần một ví dụ đơn giản là đủ minh họa ý này. Năm 2010, hai doanh nhân Ấn Độ lập một trang mạng gọi là I Paid a Bribe
(Tôi hối lộ). Trang mạng này kêu gọi người ta đăng nặc danh những
trường hợp công dân Ấn Độ phải bỏ tiền ra để hối lộ. Đến tháng 8/2012,
trang mạng này đã ghi nhận hơn 20.000 vụ tham nhũng. Một số doanh nhân
Trung Quốc cố gắng bắt chước: Họ lập trang I Made a Bribe (Tôi hối lộ)
và 522phone.com. Nhưng hai trang
mạng này nhanh chóng bị chính quyền Trung Quốc đóng. Kết luận đúng ở đây
không phải, theo như kiểu lập luận của Li, là Trung Quốc trong sạch hơn
Ấn Độ vì Trung Quốc không có bài đăng trên mạng nào về các vụ tham
nhũng trong khi Ấn Độ có khoảng 20.000 vụ được đăng lên.
Dù tôi rất tôn trọng công lao của Minh bạch Quốc tế, dữ liệu của tổ
chức này rất kém trong việc xử lý điểm khác biệt căn bản về mức cảm nhận
tham nhũng (perception of corruption) và mức độ tham nhũng thực sự xảy
ra (incidence of corruption). Các chế độ dân chủ có tính minh bạch cao
hơn – về những cái tốt và cái xấu của chúng – hơn các chế độ toàn trị.
Chúng ta biết nhiều hơn về nạn tham nhũng ở Ấn Độ một phần vì chế độ Ấn
Độ minh bạch hơn, và có một giới bình luận nhiều chuyện không ngại phê
phán và chỉ trích chính phủ (và trong một vài trường hợp, gắn máy quay
phim trong phòng khách sạn để ghi cảnh đưa tiền đút lót cho các chính
khách). Ngoài ra, tham nhũng ở cấp thấp dễ quan sát hơn tham nhũng ở cấp
cao nhất trong hệ thống tôn ti chính trị. Chỉ số TI phát hiện trò tham
nhũng của một cảnh sát viên tên Barun ở Chennai dễ hơn là phát hiện tội
tham nhũng của một ủy viên Bộ Chính trị tên Bạc Hy Lai ở Trùng Khánh.
Những yếu tố này, chứ không phải bản thân nạn tham nhũng, có thể giải
thích phần lớn những khác biệt về thứ hạng TI giữa Trung Quốc và Ấn Độ.
Vẫn dùng số liệu của TI, Li thích chỉ ra rằng những nước như
Indonesia, Argentina và Philippines vừa là chế độ dân chủ vừa khét tiếng
về tham nhũng. Ông thường bỏ sót các dữ kiện quan trọng khi đề cập đến
vấn đề này. Phải, các quốc gia này là những nền dân chủ, vào năm 2013,
nhưng những nước này đã được cai trị bởi các nhà độc tài quân sự nhẫn
tâm trong mấy chục năm trước khi chuyển sang dân chủ. Chính chế độ
chuyên quyền của các quốc gia này đã sinh ra và dung dưỡng nạn tham
nhũng. (Còn nhớ 3.000 đôi giày của bà Marcos?) Tham nhũng giống như ung
thư, đã thành di căn và ăn sâu. Tuy ta có lý do hoàn toàn chính đáng để
phê phán các nền dân chủ mới vì không kịp thời diệt tận gốc nạn tham
nhũng, nhưng nhầm lẫn các khó khăn của việc chữa trị nạn tham nhũng ăn
sâu với nguyên nhân sâu xa của nó thì cũng hệt như nói rằng một bệnh
nhân ung thư bị mắc bệnh ung thư sau khi nhập viện để làm hóa trị.
Nhóm những kẻ tham nhũng trắng trợn nhất thế giới chỉ toàn những kẻ
chuyên quyền. Theo một báo cáo của TI, tính đến năm 2004, ba lãnh tụ cầm
quyền bòn rút quốc dân nhiều nhất là Suharto, Marcos và Mobutu. Ba nhà
độc tài này đã cướp bóc tổng cộng 50 tỉ Mỹ kim từ người dân bần cùng ở
nước họ. Đương nhiên các chế độ dân chủ không miễn dịch với nạn tham
nhũng, nhưng tôi nghĩ họ phải cố gắng cật lực hơn nữa mới mong theo kịp
những nhà độc tài này.
Li hết sức tin tưởng ở chế độ Trung Quốc. Trước hết ông lập luận
rằng chế độ này được đa số dân chúng Trung Quốc ủng hộ. Ông trích dẫn
một cuộc khảo sát của báo Financial Times nói rằng 93 phần trăm
thanh niên Trung Quốc lạc quan về tương lai của họ. Tôi đã xem những
mức đánh giá tín nhiệm cao này do Li và nhiều người khác dùng làm bằng
chứng cho thấy chế độ Trung Quốc lành mạnh và vững vàng, nhưng tôi không
hiểu tại sao Li lại dừng ở mức 93%. Sao không đi tới cùng, 100% luôn? Ở
một nước không có tự do ngôn luận, yêu cầu người dân trực tiếp đánh giá
thành tích của các vị lãnh đạo thì cũng giống như yêu cầu người dân làm
bài thi chỉ có một lựa chọn trả lời duy nhất. Số liệu trưng cầu dân ý
dành cho Erich Honecker và Kim Jong-un hẳn phải khiến các vị lãnh đạo
Trung Quốc xấu hổ.
(Tôi cũng xin chú thích một chút để khuyến cáo về cách nên và không
nên sử dụng số liệu khảo sát ở Trung Quốc. Tôi đã làm nhiều nghiên cứu
khảo sát ở Trung Quốc, và tôi luôn thấy ngượng vì khó lý giải được các
kết quả khảo sát. Ngoài các áp lực chính trị thường hướng các câu trả
lời theo một chiều nhất định, một trở ngại khác là người trả lời khảo
sát ở Trung Quốc đôi khi xem làm khảo sát giống như làm bài thi. Bài thi
ở Trung Quốc có câu trả lời chuẩn, và đôi khi người trả lời khảo sát ở
Trung Quốc điền vào mẫu khảo sát bằng cách cố gắng đoán xem câu trả lời
“chuẩn” là gì, chứ không phải bày tỏ ý kiến của chính họ. Tôi thường
khuyến cáo không nên sử dụng một cách ngây thơ số liệu khảo sát ở Trung
Quốc.)
Li cũng ca ngợi khả năng thích ứng của chế độ chính trị Trung Quốc. Tôi xin trích:
“Giờ đây, phần lớn giới chính trị học cho rằng hệ thống độc đảng vốn
dĩ không có năng tự sửa sai. Hệ thống đó không trường tồn vì không thể
thích ứng. Quý vị thử xem thực tế thế nào nhé. Trong 64 năm điều hành
quốc gia lớn nhất thế giới, các chính sách của Đảng đã có phạm vi rộng
hơn bất ở nước nào khác trong ký ức cận đại, từ tập thể hóa đất đai
triệt để đến chủ trương Đại Nhảy vọt, rồi tư hữu hóa đất nông trại, rồi
Cách mạng Văn hóa, rồi cải cách thị trường của Đặng Tiểu Bình, rồi đến
người kế nhiệm Giang Trạch Dân thực hiện một bước tiến chính trị lớn là
mở cửa cho phép doanh nhân tư nhân vào Đảng, điều không tưởng trong thời
kỳ Mao cầm quyền. Như vậy, Đảng tự sửa sai theo cách khá đáng kể.”
Giờ thử hình dung ta kể câu chuyện sau đây để tung hô “khả năng
thích ứng” của Nga chẳng hạn: Nước Nga hay dân tộc Nga đều có khả năng
thích ứng rất cao. “Các chính sách” của Nga đã có phạm vi “rộng hơn bất ở
nước nào khác trong ký ức cận đại”, từ trại tù gulag đến phong trào
khủng bố đỏ của Stalin, rồi tập thể hóa, rồi kế hoạch hóa tập trung, rồi
glasnost và perestroika, rồi tư hữu hóa, rồi chủ
nghĩa tư bản bè phái, rồi chế độ dân chủ phi tự do dưới thời Putin, điều
không tưởng trong thời kỳ Lenin cầm quyền. Như vậy, nước Nga “tự sửa
sai theo cách khá đáng kể.”
Tôi xin nói rõ và dứt khoát – cách Li lý giải về khả năng thích ứng
của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) giống y hệt cách tôi nói về Nga.
Điểm khác biệt duy nhất là Li nói đến một tổ chức chính trị – ĐCSTQ –
còn tôi nói về một nước có chủ quyền.
Thính giả TED vỗ tay tán thưởng bài diễn thuyết của Li – nhiều lần
là đằng khác. Nếu Li đã so sánh ví von về Nga, chẳng biết thính giả có
còn tán thưởng nồng nhiệt nữa hay không. Lý do rất đơn giản: Thính giả
TED hiểu tường tận tình hình xáo trộn, bạo lực và con số người chết cao
ngất trời trong thời cai trị của Liên Xô. Trong cuốn sách của ông có
nhan đề The Better Angels of our Nature (tạm dịch: Những thiên thần tốt đẹp hơn của bản chất con người chúng ta),[i] Steven Pinker
trích dẫn kết quả nghiên cứu của các học giả khác cho thấy chế độ Liên
Xô đã giết 62 triệu người dân của chính mình. Thiết nghĩ cái từ “sửa
sai” có phần nói nhẹ đi mức độ biến đổi to lớn từ chế độ sát nhân, diệt
chủng của Stalin sang nước Nga ngày nay tuy còn nhiều vấn đề và khó khăn
nhưng dù sao vẫn có dân chủ.
Tôi không biết một anh chàng hippie Berkeley học gì ở trường, nhưng ở
Cambridge, Massachusetts, nơi tôi đã học và nay theo nghiệp làm giáo
sư, tôi đã học – và hiện nay dạy – hàng ngày rằng ngôn từ thực sự có ý
nghĩa. Đối với tôi, tự sửa sai có ít nhất hai hàm ý. Thứ nhất, tự sửa
sai là việc sửa sai do chính bản thân thực hiện. Đúng là các chính sách
của Mao bị những người kế tục “sửa sai” hay thậm chí đảo ngược, như Li
đã đề cập, nhưng nói đây là “sự tự sửa sai” nghĩa là sao? Những chính
sách vô cùng tai hại của Mao vẫn còn trong những ngày xế bóng của ông
ngay cả khi Mao Chủ tịch nằm liệt giường trong trạng thái thực vật, và
người kế vị ông – lên nắm quyền thông qua một thay đổi gần như là đảo
chính – chỉ dám sửa đổi các chính sách của Mao sau khi đã biết chắc Mao
không sống nổi nữa. Nếu đây là một ví dụ của việc tự sửa sai, vậy đúng
ra cái gì không phải là một hành động tự sửa sai? Gần như mỗi ví dụ thay
đổi chính sách mà Li nêu ra trong bài diễn thuyết của mình đều được
thực hiện bởi người kế vị người đã khởi xướng cái chính sách bị sửa đổi.
(Trong nhiều trường hợp, thậm chí không phải do người kế vị liền sau
đó.) Đây là một định nghĩa kỳ cục về việc tự sửa sai. Cái này có gồm
kiểu tự sửa sai khi những bài toán làm sai mà tôi chưa sửa thuở nhỏ nay
đang được con tôi sửa?
Nghĩa thứ hai của tự sửa sai liên quan đến hoàn cảnh diễn ra việc
chỉnh sửa, chứ không chỉ là danh tính của người thực hiện chỉnh sửa. Một
đứa trẻ 10 tuổi có thể tự nguyện sửa lỗi chính tả hay phép toán làm sai
của mình, hoặc có thể đành phải sửa sau khi bị cô giáo quất mạnh mấy
phát vào tay. Trong cả hai tình huống, danh tính của người chỉnh sửa là
một – đứa học trò 10 tuổi – nhưng hoàn cảnh diễn ra việc chỉnh sửa lại
khác hẳn nhau. Ta thường sẽ xếp tình huống thứ nhất vào loại “tự sửa
sai”, còn tình huống thứ hai vào loại ép buộc, cưỡng bách, hay như trong
trường hợp này, bạo lực. Nói cách khác, tự sửa sai hàm ý sự tự nguyện
của người thực hiện chỉnh sửa, chứ không phải bị ép buộc hay cưỡng bách,
không phải vì không còn cách nào hơn là phải chỉnh sửa. Yếu tố chọn lựa
là một thành phần thiết yếu của định nghĩa về tự sửa sai.
Tôi xin cung cấp thêm vài chi tiết bị bỏ sót cho những ai vỗ tay tán
thưởng khi Li gọi giai đoạn 64 năm của chế độ độc đảng ở Trung Quốc là
giai đoạn của những trường hợp tự sửa sai nối tiếp nhau. Từ năm 1949 đến
2012, ĐCSTQ đã có sáu lãnh tụ tối cao. Trong sáu người này, hai vị bị
phế truất một cách đột ngột và không kèn không trống (và một trong hai
vị này bị hạ bệ mà không được xét xử đúng quy trình, thậm chí theo các
thủ tục của chính ĐCSTQ). Một vị thứ ba mất hết quyền lực và bị quản
thúc tại gia trong 15 năm cho đến khi chết. Vậy là 3 trong 6 vị không
nắm quyền cho trọn nhiệm kỳ dự trù của họ. Hai trong số những người được
Mao chọn kế vị chết trong khi tại chức, một người thiệt mạng trong một
vụ nổ máy bay khi ông tìm cách trốn sang Liên Xô, còn người kia bị tra
tấn đến chết và bị chôn với tên giả. À, tôi đã nhắc đến con số ước tính
30 triệu người đã chết do chủ trương Đại Nhảy vọt tai hại của Mao, và có
lẽ là hàng triệu người đã chết do bạo lực của Cách mạng Văn hóa chưa
nhỉ? Vả lại, bạn có biết Mao không những vẫn tiếp tục mà còn đẩy nhanh
các chính sách Đại Nhảy vọt sau khi những bằng chứng về mức độ [tác hại] của nạn đói [thời kỳ 1958-1962][ii] đã rõ như ban ngày?
Li gọi những thay đổi chính sách này sau những biến động đau đớn này
là “những hành động tự sửa sai”. Cách lý giải của ông là một thực thể
gọi là ĐCSTQ, chứ không phải ai khác, thực hiện những thay đổi chính
sách này. Trước hết, sở dĩ như vậy có phải là do chẳng có ai khác được
phép có cơ hội thực hiện những thay đổi chính sách này? Thứ hai, lối suy
nghĩ cứ chú trọng đến ai thực hiện thay đổi chính sách chứ không phải
hoàn cảnh diễn ra thay đổi chính sách quả là không ổn. Ta thử mở rộng
logic của Li thêm một chút nữa. Liệu chúng ta có phải định nghĩa lại
Phong trào Độc lập Mỹ là một hành động tự sửa sai của người Anh? Hay có
lẽ gọi việc nhượng quyền cai trị của đế quốc Anh cho Ấn Độ là một hành
động tự sửa sai khác của người Anh? Liệu chúng ta có phải mô tả lại sự
đầu hàng của người Nhật để kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai là hành
động tự sửa sai của người Nhật? Đúng là có hai quả bom nguyên tử thả
xuống Hiroshima và Nagasaki và bao chuyện nữa, nhưng chẳng phải các đại
diện của Nhật hoàng Hirohito đã ký Văn kiện Nhật Đầu hàng trên chiến hạm
USS Missouri hay sao?
Đã là búa thì nhìn gì cũng nghĩ là đinh. Li nhìn thấy các căn bệnh
của các chế độ dân chủ ở khắp nơi – khủng hoảng tài chính ở Châu Âu và
Mỹ, nền chính trị tiền bạc và nạn tham nhũng. Tôi đồng ý ngay là nền
chính trị tiền bạc ở Mỹ là một vấn đề rất lớn và quả thật nó đang khiến
cho chế độ như một cỗ máy hỏng nặng, không còn vận hành trơn tru. Nhưng
ta nên hiểu thật rõ bằng cách nào và lý do tại sao nền chính trị tiền
bạc là một cỗ máy hỏng hóc. Nó hỏng hóc chính là vì về cơ bản nó đối
nghịch với dân chủ. Nền chính trị tiền bạc là hình thái lệch lạc của dân
chủ. Nó phá hoại và làm mất giá trị một trụ cột chuẩn mực của dân chủ –
một người một phiếu. Để nhất quán về logic, lẽ ra Li nên tung hô nền
chính trị tiền bạc vì nó đưa Mỹ đi sang hướng của nền chính trị kiểu
chuyên quyền mà ông quá say mê.
Điều này có thể là một tiết lộ gây sốc cho Li, nhưng các nền dân chủ
Mỹ và Châu Âu không sáng chế ra khủng hoảng tài chính. Nhiều chế độ
chuyên quyền đã trải qua các cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trầm
trọng. Ví dụ như Indonesia năm 1997 và nhiều chế độ quân phiệt ở Châu Mỹ
La tinh trong thập niên 1970 và 1980. Những chế độ chuyên quyền duy
nhất không bị khủng hoảng tài chính rõ rệt là các nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, như Romania và Đông Đức. Nhưng sở dĩ như vậy hoàn toàn là
do họ không đáp ứng điều kiện tối thiểu để có khủng hoảng tài chính –
là phải có một hệ thống tài chính. Những hậu quả của khiếm khuyết này
thì ai cũng biết rồi – thay vì những trồi sụt lớn tuần hoàn theo chu kỳ,
những nước này bị đình trệ kinh tế lâu dài. Một nhà đầu tư vốn mạo hiểm
chẳng phát đạt nổi trong chế độ đó.
Li nói ông đã nghiên cứu khả năng đạt thành tích của các chế độ dân
chủ. Ít nhất là trong bài diễn thuyết này, bằng chứng cho thấy ông đã
nghiên cứu chưa được thuyết phục cho lắm. Không có bằng chứng nào cho
thấy các quốc gia phải trả giá kinh tế vì có tính dân chủ. (Cũng nên lưu
ý rằng cũng không có bằng chứng toàn cầu đáng thuyết phục cho thấy các
chế độ dân chủ nhất thiết phải đạt thành tích tăng trưởng kinh tế tốt
hơn các chế độ chuyên quyền. Có nơi có, có nơi không. Kết luận tùy từng
trường hợp.) Nhưng về các lĩnh vực dịch vụ công, bằng chứng cho thấy các
chế độ dân chủ nhỉnh hơn. Hai học giả David Lake và Matthew Baum chứng
minh rằng các chế độ dân chủ ưu việt các quốc gia chuyên quyền về cung
cấp dịch vụ công, chẳng hạn như y tế và giáo dục. Không chỉ các nền dân
chủ lâu đời có thành tựu tốt hơn; mà cả các nước chuyển sang dân chủ
cũng có cải thiện tức khắc về cung cấp các dịch vụ công này, và các nước
quay trở lại với chế độ chuyên quyền thường bị sa sút.
Li đổ lỗi tình trạng tăng trưởng thấp ở Châu Âu và ở Mỹ cho dân chủ.
Tôi hiểu tại sao ông có quan điểm này, vì đây là sai lầm phổ biến của
những người quan sát hời hợt – Trung Quốc tăng trưởng với tỉ lệ 8 hay 9
phần trăm, còn Mỹ tăng trưởng với tỉ lệ 1 hoặc 2 phần trăm. Ông đang
nhầm lẫn một hiệu ứng toán học của việc tăng trưởng thấp do cơ số lớn
với một hiệu ứng chính trị của việc dân chủ kìm hãm tăng trưởng. Vì các
quốc gia dân chủ thường giàu hơn và có GDP bình quân đầu người cao hơn
nhiều, nên họ khó mà có tỉ lệ tăng trưởng bằng với các nước nghèo – và
chuyên quyền – có GDP bình quân đầu người thấp hơn nhiều. Tôi xin đưa ra
một so sánh ví von. Một cậu bé 15 tuổi có nhiều khả năng tự đi xem phim
hay đi chơi với bạn bè hơn một cậu bé 10 tuổi vì cậu ta lớn tuổi hơn và
trưởng thành hơn. Cũng có thể là cậu ta không lớn nhanh bằng cậu bé 10
tuổi vì cậu ta đã gần hơn với đỉnh của chiều cao con người. Quả là ngớ
ngẩn nếu nhận xét, theo logic của Li, rằng cậu bé 15 tuổi lớn chậm hơn
vì cậu tự đi xem phim.
Li nói rất rõ rằng ông ghét dân chủ, hơn là về các lý do khiến ông
ghét dân chủ. Li bác bỏ dân chủ với lý do văn hóa. Trong bài diễn
thuyết, ông khẳng định dân chủ là một khái niệm xa lạ đối với văn hóa
Trung Hoa. Quan điểm này suýt nữa nghe buồn cười nếu không có những hàm ý
gián tiếp. Như tôi vẫn hiểu xưa nay, vốn mạo hiểm là một khái niệm nhập
ngoại nhưng dường như điều đó không cản trở Li theo nghiệp này và giàu
lên nhờ nó. (Mà hình như “Eric” cũng là gốc gác nước ngoài phải không
nhỉ? Tôi có thể sai về điểm này.) Ngược lại, Li có nhất nhất tôn trọng
từng nguyên tắc của văn hóa và truyền thống Trung Hoa? Liệu Li có phản
đối việc bãi bỏ tập quán bó chân của phụ nữ Trung Quốc?
Có một thực tế đơn giản là người Trung Quốc đã chấp nhận nhiều khái
niệm và tập quán nước ngoài. (Xin nhắc một chút: đối với người Trung
Quốc, chủ nghĩa Marx cũng Tây phương không kém Adam Smith.) Sẽ hoàn toàn
chính đáng nếu ta tranh luận về những tư tưởng và tập quán nước ngoài
nào Trung Quốc nên chấp nhận, áp dụng hay phỏng theo, nhưng cuộc tranh
luận này là về những tư tưởng mà Trung Quốc nên áp dụng, chứ không phải
về việc liệu Trung Quốc có nên áp dụng bất cứ tư tưởng và tập quán nước
ngoài nào hay không.
Nếu vấn đề là về những tư tưởng nào hay những tập quán nào nên áp
dụng hay bác bỏ, thì khác với Li, tôi không cảm thấy đủ tự tin để biết
chính xác những tư tưởng và tập quán nước ngoài nào mà 1,3 tỉ dân Trung
Quốc muốn theo hay muốn bác bỏ. Về mặt logic, một lập luận mang tính văn
hóa để phản bác dân chủ không khiến người Trung Quốc không có được dân
chủ, mà dẫn đến một phương hướng hành động để người dân Trung Quốc tự
quyết định về các ưu điểm hay nhược điểm của dân chủ. Hơn nữa, nếu chính
người Trung Quốc tự nguyện bác bỏ dân chủ, thì việc gì phải tốn kém quá
nhiều nguồn lực để chống và cấm đoán dân chủ? Không có cách nào tốt hơn
để tiêu xài số tiền này hay sao?
Cho đến nay cuộc tranh luận này chưa diễn ra ở Trung Quốc, vì muốn có cuộc tranh luận này thì trước tiên phải có chút ít
dân chủ cái đã. Nhưng nó đã diễn ra ở những môi trường Trung Hoa khác,
và kết quả của những cuộc tranh luận đó là giữa văn hóa Trung Hoa và dân
chủ về căn bản không xung khắc nhau. Hong Kong, dù không có chế độ dân
chủ bầu cử, có tự do báo chí và chế độ pháp trị, và chẳng có bằng chứng
nào cho thấy nơi này rơi vào cảnh hỗn loạn hay vô chính phủ. Đài Loan
ngày nay có một nền dân chủ đầy sức sống, và nhiều người Đại lục sang
thăm Đài Loan thường ngạc nhiên khi thấy xã hội Đài Loan không chỉ có
dân chủ mà còn tôn trọng truyền thống Trung Hoa hơn nhiều so với Đại
lục. (Xưa nay tôi luôn cảm thấy những người tin rằng dân chủ và văn hóa
Trung Hoa xung khắc với nhau là những người thầm ủng hộ độc lập cho Đài
Loan. Họ không xem người Đài Loan là Trung Hoa.)
Quả thật bản thân Li đã chấp nhận một số cải cách chính trị thường
được xem là “Tây phương”. Các tổ chức phi chính phủ thì được, và thậm
chí đôi chút tự do báo chí cũng được. Ông cũng ủng hộ đôi chút dân chủ
trong nội bộ Đảng. Đó đều là những bước đúng đắn để đạt đến chế độ Trung
Quốc có tính dân chủ hơn chế độ của Mao, và tôi ủng hộ cả hai tay.
Chúng tôi khác biệt ở chỗ tôi cho rằng quyền tự do bỏ phiếu và cạnh
tranh đa đảng là những bước mở rộng tự nhiên và hợp lý của những cải
cách ban đầu này, trong khi Li vạch một ranh giới rõ rệt giữa các cải
cách chính trị đã diễn ra và những cải cách chính trị tiềm năng mà một
số người trong chúng ta đã cổ xúy. Dù gắng hết sức, tôi vẫn không thấy
có gì khác biệt trên nguyên tắc giữa những cải cách một phần này và
những cải cách hoàn chỉnh hơn có bao gồm dân chủ.
Li có một cách kỳ lạ để phản đối dân chủ: Ông phản đối nhiều cơ chế
vận hành của dân chủ. Đặc biệt, ông có ác cảm với việc bỏ phiếu. Nhưng
vấn đề là bỏ phiếu chỉ là cách để thực thi dân chủ, và ngay cả Li cũng
ủng hộ có đôi chút dân chủ. Ví dụ, ông ủng hộ dân chủ trong nội
bộ Đảng. Được, tôi cũng vậy; nhưng làm sao ta thực thi dân chủ trong
nội bộ Đảng nếu không có bỏ phiếu? Như vậy hơi giống như ca ngợi môn thể
thao quần vợt nhưng lại lên án việc dùng vợt để chơi môn này.
Li chưa đưa ra được một lập luận mạch lạc và hợp lý cho các quan
điểm của mình về dân chủ. Tôi ngờ rằng, dù tôi không có bằng chứng trực
tiếp, có một phương án đơn giản – ủng hộ các cải cách mà ĐCSTQ ủng hộ và
phản đối các cải cách mà ĐCSTQ phản đối. Làm bộ làm tịch như vậy thì
cũng ổn, nhưng đó không phải là một lập luận có nguyên tắc về bất cứ
điều gì.
Nói vậy, nhưng tôi vẫn tin rằng có một cuộc tranh luận quyết liệt về
dân chủ là điều hoàn toàn lành mạnh và thực sự cần thiết – nhưng cuộc
tranh luận đó phải dựa trên số liệu, dữ kiện, logic là lý luận. Theo
tiêu chí này, bài diễn thuyết của Li chưa khởi xướng cuộc tranh luận đó.
Tuy nhiên, về mặt này, chế độ dân chủ và chế độ chuyên quyền không
đối xứng nhau. Trong một chế độ dân chủ, ta có thể tranh luận và phê
phán cả dân chủ lẫn chuyên quyền, như Li đã làm khi ông chê George W.
Bush (tôi rất khoái chỗ này) và như tôi làm ở đây. Nhưng những người
trong một chế độ chuyên quyền chỉ có thể phê phán dân chủ mà thôi. (Có
tin kể rằng khi được thông báo có những người biểu tình la hét “Đả đảo
Reagan” trước Nhà Trắng mà chính quyền Mỹ chẳng làm được gì với họ,
Brezhnev nói với Reagan, “Có những người la hét ‘Đả đảo Reagan’ trên
Quảng trường Đỏ và tôi sẽ chẳng làm gì với họ cả.”) Tôi chẳng có ác cảm
gì với những người phê phán giới cầm quyền và tỏ ra nghi ngờ về dân chủ.
Thực ra, khả năng làm được điều đó trong một nền dân chủ chính là sức
mạnh của dân chủ, và một nguyên nhân quan trọng của tiến bộ nhân loại.
Copernicus là Copernicus vì ông lật đổ, chứ không phải vì ông tái tạo
thiên văn học Ptolemy. Nhưng với cùng tiêu chí đó, tôi quả thật có ác
cảm với những người không thấy ưu điểm của việc cung cấp quyền tự do mà
họ đang có cho những người hiện chưa có quyền tự do đó.
Giống như Li, tôi không thích giọng điệu cứu tinh mà một số người
dùng để ủng hộ dân chủ. Tôi ủng hộ dân chủ vì những lý do thực dụng. Lợi
ích quan trọng nhất của dân chủ là nó có khả năng chế ngự bạo lực.
Trong cuốn The Better Angels of Our Nature,
tác giả Pinker cung cấp những số liệu thống kê đáng kinh ngạc: Trong
thế kỷ 20, các chế độ toàn trị gây ra 138 triệu cái chết, trong đó có
110 triệu ở các nước cộng sản. Các chế độ chuyên quyền làm chết thêm 28
triệu người nữa. Các chế độ dân chủ làm chết 2 triệu người, chủ yếu ở
các thuộc địa của họ cũng như những vụ phong tỏa thực phẩm và đánh bom
dân sự trong chiến tranh. Như Pinker đã đề cập, các chế độ dân chủ thậm
chí gặp khó khăn trong việc xử tử những kẻ giết người hàng loạt. Theo
lập luận của Pinker, các chế độ dân chủ có “một mớ bòng bong các giới
hạn về thể chế, nên một vị lãnh tụ không thể chỉ việc hứng chí huy động
quân đội hay dân quân dàn trải khắp nước rồi bắt đầu sát hại hàng loạt
dân thường.”
Ngược lại với những điều dường như Li được chỉ bảo khi ông là một
anh chàng hippie Berkeley, ý đồ của dân chủ không phải là dân chủ dẫn
đến một cõi Niết bàn, mà là dân chủ có thể giúp ngăn chặn một địa ngục
trần gian. Dân chủ còn nhiều, nhiều vấn đề. Chức năng bảo hiểm này của
dân chủ – về giảm thiểu các thảm họa – thường bị lãng quên hoặc bị xem
là đương nhiên, nhưng đây là lý do quan trọng nhất khiến dân chủ ưu việt
hơn tất cả mọi chế độ chính trị khác từng được loài người phát minh cho
đến nay. Biết đâu một ngày nào đó sẽ có một chế độ tốt hơn dân chủ,
nhưng chế độ chính trị của Trung Quốc, theo cách diễn đạt của Li, không
phải là một trong những chế độ đó.
Yasheng Huang (Hoàng Á Sinh) là Giáo
sư Kinh tế Chính trị và Quản trị Quốc tế tại Trường Quản trị Kinh doanh
Sloan thuộc Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và là nhà sáng lập cả
Phòng Nghiên cứu Trung Quốc lẫn Phòng Nghiên cứu Ấn Độ ở trường Sloan
của MIT. Các bài viết của ông đã đăng trên The Guardian, Foreign Policy, Forbes, và gần đây nhất là trên Foreign Affairs, nơi ông tranh luận với Eric X. Li về một chủ đề tương tự. Năm 2011, giáo sư Huang nói chuyện ở diễn đàn TEDGlobal về dân chủ và tăng trưởng ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Nguồn: Yasheng Huang, Why democracy still wins: A critique of Eric X. Li’s “A tale of two political systems”, TED Blog, 1/7/2013