Trương Đình Trung
Tranh Medi Belortaja
Hầu như đại đa số người Việt Nam chúng ta, sâu trong tiềm thức,
thường có khuynh hướng đánh giá mọi vấn đề chính trị, đặc biệt là chính
trị quốc tế, trên căn bản tình cảm và đạo lý, theo công thức lưỡng
chuẩn: yêu-ghét, bạn thù, tốt-xấu, đúng-sai, thiện-ác, chánh-tà, v.v…
Người viết tạm đặt tên cho lối lượng định dựa trên tiêu chuẩn đạo đức
như vậy là lối nhận định Nhị Nguyên, một lối nhận định gói ghém nhiều
cảm tính chủ quan, bắt nguồn từ thói quen chia hai trong tư duy và trong
thế giới quan lưỡng cực, di sản của văn hoá Khổng Giáo cộng với não
trạng Chiến Tranh Lạnh. Lối nhận định đó thường dẩn đến sai lạc, và dễ
khiến con người có khuynh hướng cực đoan. Trong khi đó phương thức xem
Quyền lực như là động cơ, hay yếu tố chính, trong quan hệ quốc tế là một
phương cách lý tính khách quan, xuất phát từ thực chất vụ lợi của mối
quan hệ ấy và bản chất cố hữu của con người. Việc lượng định các mối
bang giao quốc tế dựa trên Quyền lực sẽ giúp người quan sát giữ được
thái độ vô tư, thăng bằng, không để bị tình cảm, đạo đức, hay ý hệ, chi
phối sự phán đoán của mình, từ đó giúp tiếp cận được thực chất của các
biến cố quốc tế một cách chính xác hơn, tránh được lầm lẫn gây ra do
tình cảm hay định kiến ý hệ.
Chính trị quốc tế, xét cho cùng, chỉ là đỉnh cao của cuộc đấu tranh
sinh tồn của loài người. Điều làm cho cuộc đấu tranh ấy của con người
mang dáng vẻ cao siêu chính là văn hoá. Văn hoá chính là bộ áo quần sặc
sở che dấu phần trần trụi hết sức thô tục và tàn bạo của nhân loại.
Nhưng dù thế nào đi nữa, thì áo quần chỉ là vật che bọc bên ngoài, dù có
đẹp đẽ bao nhiêu cũng không đổi thay được thực chất ở bên trong. Thực
chất ấy, trong chính trị quốc tế, là mỗi quốc gia đều cố gắng hết sức,
bằng mọi biện pháp có thể, thâu đạt cho bằng được, càng nhiều càng tốt,
quyền lợi về cho mình. Quyền lợi ấy bao gồm tất cả: quân sự, chính trị,
ngoại giao, tài nguyên, và kinh tế, v.v...Trong mối bang giao ấy thì cứu
cánh biện minh cho phương tiện, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé,
kẻ mạnh làm ra luật và viết nên lịch sử. Chẳng có gì gọi là CÔNG LÝ, và
nếu có chăng, thì cũng chỉ được đề cập đến bởi kẻ chiến thắng sau cùng.
Kể cả lịch sử thì cũng chỉ đáng kể khi được người thắng cuộc viết ra. Và
tất cả đó là điều tự nhiên, nếu không muốn nói là luật tự nhiên. Trước
đây, trong thời thuộc địa, đã không hề có cái gọi là KHAI HOÁ VĂN MINH,
thì ngày nay cũng không có việc TRUYỀN BÁ và BẢO VỆ TỰ DO-DÂN CHỦ. Mỗi
quốc gia trong quan hệ với quốc gia khác luôn nhắm đến một mục tiêu duy
nhất; đó là bảo vệ sự sống còn của mình và trở nên mạnh hơn, để nếu
không thống trị được thì ít nhất cũng lấn át được, nước kế bên. Và để
đạt mục tiêu đó, mỗi quốc gia phải luôn tìm cách gia tăng Quyền Lực của
mình và nếu được thì tìm cách giảm thiểu, hay vô hiệu hoá, quyền lực của
quốc gia bên cạnh.
Khả năng quân sự là sự thể hiện của quyền lực vừa nói, đồng thời cũng
là phương tiện bảo vệ và phát huy Quyền Lực. Nhưng nền tảng của quân sự
lại là kinh tế, hay đúng hơn là sự giàu mạnh về vật lực và nhân tài.
Chính do nền tảng kinh tế của quyền lực mà chế độ thuộc địa khai sinh;
và cũng chính trên nền tảng kinh tế đó mà sự toàn cầu hoá, thừa kế chế
độ thuộc địa, ra đời.
Trước đây, những đế quốc lững lẫy như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Đức, Ý, Nhật, v.v…đã tìm cách gia tăng sức mạnh kinh tế, tức nền
tảng của quyền lực, bằng cách đi xâm chiếm các nước nhược tiểu, chiếm
đoạt nguồn tài nguyên, nhân lực của các nước ấy, phục vụ cho kinh tế của
mình. Trong quá trình xâm chiếm thuộc địa ấy, các cường quốc cạnh tranh
và tìm cách loại trừ lẫn nhau, hay chí ít cũng làm cho cường quốc bên
cạnh yếu hơn mình. Các cuộc thế chiến là đỉnh cao của những cạnh tranh
như vậy. Đặc điểm của chế độ thuộc điạ là sự chiếm đóng bằng quân sự và
sự cai trị trực tiếp của cường quốc đối với thuộc địa.
Các cuộc thế chiến, tuy khủng khiếp, nhưng giúp các cường quốc rút ra
một bài học quan trọng; đó là việc chiếm đóng và cai trị của cường quốc
đối với thuộc địa, tuy có mang lại những lợi ích lớn lao về kinh tế cho
mẫu quốc, nhưng xét dưới góc độ doanh lợi thì đó không phải là phương
thức tối ưu để gia tăng quyền lực cho cường quốc; nó có những nhược điểm
lớn, chẳng hạn như phải chi phí tốn kém cho việc chiếm đóng và bình
định, và cả cai trị nữa, và không thuận tiện về mặt tuyên truyền. Mặt
khác sự cạnh tranh giữa các cường quốc trong việc giành thuộc địa đã đưa
đến những hậu quả thảm khốc; lợi bất cập hại. Việc đem quân chiếm đóng,
cử người cai trị, là rất tốn kém; ngay cả với chế độ thuộc điạ hiệu
năng cao nhất như của Anh Quốc: chỉ cần 100,000 quân sĩ và viên chức, mà
cai trị được cả một Ấn Độ đông đến 300 triệu, cũng không còn được xem
là phương thức tối ưu. Một phương thức theo đó không cần có quân đội
chiếm đóng và bổ nhiệm nhân viên cai trị, nhưng vẫn bảo đảm cho cường
quốc thu hút được tài nguyên và khai thác được nhân lực của các nước
nhược tiểu phục vụ nền kinh tế của mình, là phương thức hay hơn, nếu
không muốn nói là tối ưu, phù hợp hơn với mức độ tiến bộ của khoa học-kỹ
thuật. Bài học đó đã được các cường quốc rút tỉa với kết quả là một hệ
thống quan hệ quốc tế mới ra đời, và cường quốc sinh sau đẻ muộn, nhưng
giàu mạnh vượt lên trên hết sau Đệ Nhị Thế Chiến là Mỹ, là người thực
hiện việc xây dựng hệ thống mới đó.
Trong hệ thống đó, Liên Hiệp Quốc, cùng các cơ quan quốc tế khác,
không có thực quyền của một cơ quan quốc tế tối cao, hoạt động trên
nguyên tắc Dân Chủ và Bình Đẳng, với chức năng thúc đẩy sự hợp tác và
duy trì hoà bình thế giới như đã được đề ra rất đẹp trong Hiến Chương,
mà chỉ là một diễn đàn thừa hành quyết định của các siêu cường, ở đó các
quốc gia nhỏ yếu không có tiếng nói. Nói cách khác, đại biểu của các
quốc gia, tuy bề ngoài là bình đẳng khi đầu phiếu đối với những vấn đề
quốc tế thông thường, lại bất bình đẳng, và đa số là vô quyền, trong
những vấn đề quốc tế quan trọng. Chẳng hạn, quan trọng nhất trong quan
hệ quốc tế là vấn đề an ninh, nhưng vấn đề này không thuộc quyền của Đại
Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, mà thuộc quyền quyết định của Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc, trong đó tập trung vào 5 quốc gia có quyền phủ quyết tối
cao; đó là Mỹ, Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc. Đặc điểm của cơ cấu phủ
quyết này đã khiến thực quyền duy trì hoà bình thế giới không nằm trong
tay đông đảo các quốc gia thành viên của LHQ, mà nằm trong tay của 5
cường quốc có quyền phủ quyết; và chỉ cần 1 cường quốc phủ quyết là đủ
để Liên Hiệp Quốc không đạt được một quyết nghị cuối cùng nào trước một
vấn đề an ninh quốc tế chung. Mặt khác cơ cấu của Hội Đồng Bảo An rõ
ràng là thiên vị, dành ưu thế cho Mỹ và hai đồng minh của Mỹ. Anh, Pháp
hiện nay, xét về năng lực kinh tế, vai trò và ảnh hưởng quốc tế đang
thua kém khá xa các quốc gia Nhật, Đức, Ấn Độ, và Ba Tây, nhưng vẫn ngồi
đó trong Hội Đồng Bảo An với quyền phủ quyết tối cao ảnh hưởng sinh
mệnh của mọi quốc gia trên thế giới! Đó là chưa kể trên bình dịên kinh
tế, các quyết định quan trọng về tài chánh, tiền tệ, hối suất, tín dụng,
mậu dịch, v.v…đều không thuộc về LHQ, mà thuộc về World Bank, IMF, và
WTO của hệ thống Bretton Woods, được lập ra tại hội nghị do Anh-Mỹ chủ
trì ở Bretton Woods, bang New Hampshire năm 1944.
Đặc điểm của các cơ quan kinh tế-tài chánh vừa nói là không có sự đầu
phiếu bình đẳng theo nguyên tắc dân chủ; mà mọi quyết định quan trọng
đều đến từ cường quốc có bách phân vốn đóng góp cao nhất. Tất cả điều lệ
của WTO cũng không phải do sự thỏa thuận chung của các thành viên, mà
là do những cường quốc khai sáng tiền thân của nó là ITO (International
Trade Organization) đặt ra. World Bank, lúc khởi sự có nhiệm vụ chính là
tái thiết Âu Châu, nhưng dần dà về sau mở rộng ra đảm đương việc xây
dựng hạ tầng cơ sở cho các quốc gia thứ ba không thuộc khối Cộng sản.
IMF là cơ quan có nhiệm vụ chính trong việc quản trị hệ thống tiền tệ
quốc tế. Ba cơ quan này là ba trụ cột dựng lên nền kinh tế toàn cầu ngày
nay; một hệ thống lấy nền kinh tế thị trường, hay đúng hơn, nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa làm nòng cốt.
Ngoài ba cơ quan trên, một yếu tố khác của hệ thống thế giới mới; đó
là đồng dollars. Dollars, do vị trí của người chủ nợ lớn nhất thế giới
sau Đệ Nhị Thế Chiến, nghiễm nhiên trở thành tiền tệ quốc tế. Các đồng
tiền khác như Đức Mark, Bảng Anh, đồng France, v.v…mất hầu hết địa vị
quốc tế của mình. Ngay cả các cường quốc đầu tiên của IMF vẫn phải quy
phần tiền tệ đóng góp của mình thành đồng dollars. Các quốc gia khác
thì, khỏi nói, họ phải kiếm mọi cách thu góp, tích trữ càng nhiều
dollars càng tốt cho các thanh toán tài chánh quốc tế, cũng như cho dự
trữ ngoại hối của mình, và duy trì sự ổn định nền kinh tế của mình bằng
cách gia tăng khối dự trữ ngoại hối bằng dollars đó. Mọi giao dịch quốc
tế đều bằng dollars: vay mượn, mua bán tài nguyên thiên nhiên, sản phẩm,
hàng hoá, các dịch vụ ngân hàng, công việc kế toán, thống kê, v.v… tất
cả đều bằng dollars hoặc căn cứ trên dollars. Giai đoạn đầu dollars sử
dụng vàng làm bản vị; nghĩa là người ta có thể đem dollars đổi lấy vàng ở
ngân hàng. Nhưng đến năm 1971, TT Nixon của Mỹ đơn phương huỷ bỏ kim
bản vị và thả nổi đồng dollars. Có một điều quan trọng là tuy không còn
dùng kim bản vị, nhưng dollars vẫn giữ nguyên địa vị quốc tế của mình,
vì một trong những hàng hoá quan trọng nhất của thế giới, được gọi là “máu”
của nền văn minh, là dầu hoả vẫn phải được mua bán bằng dollars!
Dollars được gọi là đồng tiền thế giới, đơn giản vì ngoài Mỹ ra, tất cả
các quốc gia trên thế giới, từ những cường quốc như Trung Quốc, Nhật,
Nga, Ấn Độ, Anh, Đức, Ý, Pháp, Ba Tây,v.v…, các nước sản xuất dầu hoả
đứng đầu thế giới như Saudi Arabia, Iran, Iraq, rồi đến các nước nhược
tiểu như Việt Nam, Lào, Campuchia, v.v…tất thảy đều đua nhau dự trữ
dollars, và dùng lượng dollar dự trữ ấy để duy trì sự ổn định cho kinh
tế của mình.
Với IMF, World Bank, WTO và với vị trí quốc tế của dollars, người ta
quan sát thấy một điều hết sức thú vị. Đó là các cường quốc, đứng đầu là
Mỹ, không cần phải đưa quân chiếm đóng hay đặt quan cai trị ở các nước
nhược tiểu ở Á-Phi và Nam Mỹ, nhưng tài nguyên và nhân lực lao động của
các nước này vẫn cứ tuôn chảy về phục vụ cho nền kinh tế của các cường
quốc. Mức độ toàn cầu hoá kinh tế càng cao, người ta càng nhận rõ hiện
tượng thú vị đó hơn. Chẳng hạn, các cường quốc không cần chiếm đóng VN,
nhưng dầu thô, hải sản, lâm sản quý, cao su, hàng tiểu thủ công, hàng
may mặc, v.v… của Cộng Hoà XHCNVN vẫn tìm cách tuôn nhập vào nước Mỹ,
vào Âu Châu, Nhật bản và Trung Quốc; sức lao động rẽ mạt của công nhân
Việt Nam vẫn được các công ty ngoại quốc tận dụng cho quá trình sản xuất
sản phẩm để đưa về phục vụ giới tiêu thụ của các cường quốc. Và không
những không than oán hay chống đối, Việt Nam còn vui vẻ tự nguyện để làm
như vậy. Và không ai dám cả quyết rằng hàng hoá và nhân lực bán cho các
cường quốc trong hệ thống mới ngày nay được giá hơn, một cách tương
đối, với giá trong thời thuộc địa hay không. Nhưng điều chắc chắn là các
nước nhược tiểu ngày nay, trong đó có Việt Nam, tuy được độc lập và có
chủ quyền hành chánh, vẫn không có khả năng chủ động, hay ngay cả ảnh
hưởng, trong cơ cấu giá cả trên thị trường quốc tế; nghĩa là họ không có
quyền quyết định giá bán hàng hoá-sản phẩm của họ, và lại càng không có
khả năng để mặc cả khi mua những sản phẩm khoa học-kỹ thuật, quân sự và
y tế cao cấp của Tây Phương.
Mấy chục năm qua, từ ngày Đổi Mới, Việt Nam đã bán dầu thô, phần lớn
là cho Mỹ, để thu ngoại tệ; dầu thô đã tạo một bách phân rất lớn trong
xuất cảng của Việt Nam. Nhưng Việt Nam đã bán dầu thô ấy theo giá nào?
Giá do chính phủ Việt Nam Cộng Sản ấn định chăng? Chắc chắn là không. Cơ
cấu thiết định giá cả dầu thô thuộc về một hệ thống giá cả quốc tế rất
phức tạp, vượt khỏi khả năng kiểm soát và mặc cả của người sản xuất.
Ngay cả khối OPEC, Tổ Chức Các Quốc gia Sản Xuất Dầu, cũng không toàn
quyền chủ động ấn định giá dầu thô do mình sản xuất ra được, nói gì đến
Việt Nam với trữ lượng dầu quá nhỏ. Mặt hàng thứ hai, cũng xuất cảng qua
Mỹ, thu ngoại tệ quan trọng cho Việt Nam và thu hút một lượng nhân công
đông đảo, là hàng may mặc. Và Việt Nam cũng đã cạy cục lắm mới nhập
được hàng may mặc vào Mỹ mà không bị hàng của Trung Quốc đè bẹp. Nhưng
dù vậy, người công nhân may mặc Việt Nam chỉ hưởng được một khoản thu
nhập rất nhỏ, so với lợi nhuận lớn lao thu về của các nhà đầu tư ngoại
quốc; người công nhân Việt Nam và chính phủ mang danh là Xã hội Chủ
Nghĩa của họ, ngay cả cũng không có năng lực để mặc cả đồng lương của
mình trên thị trường quốc tế. Và ngoài các nhà đầu tư tư bản ngoại quốc,
người hưởng lợi cuối cùng vẫn là giới tiêu thụ Mỹ.
Vắn tắt, kết luận rút ra từ những điều vừa bàn trên là trong thời đại
ngày nay, với hệ thống kinh tế-tài chánh thế giới Bretton Woods, Mỹ hay
các cường quốc, không cần phải đem quân qua chiếm đóng Việt Nam, không
cần phải cho lính canh giữ các mỏ dầu thô, hoặc giám sát các thợ may
mặc, dầu thô và giá nhân công rẻ mạt của hàng may mặc Việt Nam vẫn tự
động tuôn vào thị trường Mỹ-Âu Châu, mang lại lợi nhuận cho các nhà tư
bản và hàng hoá giá rẻ cho giới tiêu thụ của các quốc gia đó. Thực tế
mậu dịch quốc tế giữa các quốc gia về hình thức, tất nhiên phức tạp và
rối rắm hơn, nhưng thực chất vẫn chỉ là mối quan hệ đế quốc-thuộc điạ
tuy thể hiện dưới dạng khác và mục tiêu sau cùng vẫn là Quyền Lực.
Việc nhấn mạnh đến yếu tố Quyền Lực trong bang giao quốc tế cũng sẽ
giúp chúng ta, chẳng hạn, nhìn về Chiến Tranh Lạnh với con mắt khác.Lâu
nay chúng ta vẫn thường cho rằng Chiến Tranh Lạnh là sự đối đầu về Ý
thức hệ giữa hai khối Cộng Sản và Tư Bản. Đúng là có sự tương tranh
đó.Nhưng có rất nhiều người, khi nói như vậy, một cách vô thức, đã giả
định rằng động cơ của sự tương tranh là do sự khác biệt về các giá trị
lý tưởng của hai hệ thống. Thực tế không phải vậy, động cơ sâu xa của sự
tranh chấp không gì khác hơn là Quyền Lực. Chiến Tranh Lạnh chỉ là một
cuộc tương tranh Quyền lực giữa hai siêu cường hàng đầu của thế giới
nhằm giành ngôi bá chủ, trong đó mọi biện pháp bá đạo đều đã được cả hai
bên tận dụng. Bên nào cũng đều gây ra đảo chánh, đàn áp đối lập và can
thiệp vũ lực vào nội bộ của các quốc gia khác, chà đạp lên quyền tự
quyết dân tộc của nước nhược tiểu. Bên nào cũng huy động tối đa hệ thống
tuyên truyền của mình để dương cao các giá trị lý tưởng, nhưng mỗi bên
đều sẳn sàng hy sinh những giá trị ấy cho các mục tiêu thực tiễn. Chẳng
hạn Liên Xô đã sẵn sàng để tấn công người đồng chí thân cận là Trung
Quốc, hoặc xua quân tràn vào Tiệp Khắc, khi thấy quyền lợi và ảnh hưởng
của mình bị đe doạ. Ngược lại Mỹ cũng đã từng nhúng tay lật đổ các chế
độ dân chủ ở Nam Mỹ, hay cả ở Nam Việt Nam, khi thấy diễn tiến tình hình
có vẻ đe doạ quyền lợi và ảnh hưởng của mình; hoặc sau cùng đã rời bỏ
Việt Nam, nơi mà Mỹ đã không ngớt tuyên truyền cho một tiền đồn của Thế
giới Tự Do, để bắt tay với một Trung Hoa CS.
Nghĩa là không hề có cái gọi chiến tranh ý thứ hệ mà chỉ có sự tương
tranh Quyền lực; không hề có vấn đề TỐT-XẤU, THIỆN-ÁC, CHÁNH-TÀ trong
quan hệ quốc tế mà chỉ có có cuộc đấu tranh sinh tồn trong đó mỗi quốc
gia phải tận dụng mọi phương thế để tự cứu lấy mình trong một thế giới
hỗn mang (anarchy). Một chính khách người Anh, Lord Palmerston
(1784-1865) hồi thế kỷ 19 đã tuyên bố một câu, tuy đơn giản, nhưng rất
sâu sắc, nói lên yếu tính của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia: “Các quốc gia không có bạn hay đồng minh vĩnh cữu, họ chỉ có quyền lợi vĩnh cửu"
(nations have no permanent friends or allies, they only have permanent
interests). Đơn giản là vậy, nhưng tiếc rằng các lãnh tụ người Việt của
chúng ta mãi đến thế kỷ 20-21 vẫn không nhận chân ra, mà cứ tự xem đất
nước mình hoặc là tiền đồn của phe Xã Hội Chủ Nghĩa và đề cao tinh thần
quốc tế vô sản, hoặc là tiền đồn của Thế giới Tự Do và đề cao tư bản chủ
nghĩa, để rồi đưa Đất Nước vào nội chiến, gây cảnh nồi da xáo thịt,
kiệt quệ và hận thù nhau mải cho đến ngày nay!
Lối nhận định nhị nguyên, đặt nền tảng trên những cặp giá trị lý
tưởng tương khắc, cũng khiến nhiều người trong chúng ta trở nên mơ hồ
đối với tình hình quốc tế hiện nay. Ngoài những lạc quan hời hợt trước
các biến động hiện nay ở Trung Đông, một số cảm ứng đối với vài động
thái ngoại giao của Mỹ hồi năm ngoái ở Việt Nam cũng là do kết quả của
lối nhận định ấy mà ra. Đã có không ít người hí hững mong đợi ngày Mỹ “trở lại”. Hoặc một số khác, tuy khá hơn, thì lại trong mong rằng Việt Nam sẽ đi với Mỹ để được bảo vệ khỏi sự uy hiếp của Trung Quốc.
Lối nhận định đặt căn bản trên sự tương tranh Quyền lực trong quan hệ
quốc tế sẽ lượng định tình hình hoàn toàn khác. Như nhìn về tình hình
và vai trò của Mỹ hiện nay ở Á Châu, chẳng hạn. Xét trên căn bản Quyền
lực, sẽ dễ dàng nhận ra rằng trong tư cách siêu cường (hegemon), Mỹ vẫn
nổ lực duy trì tư thế khống chế đối với mọi đối thủ tiềm tàng trong phạm
vi khu vực cũng như toàn cầu. Một trong những phương cách để thực hiện
nổ lực ấy là duy trì sự cân bằng quyền lực tại từng khu vực nhằm tạo ra
một sự kìm chế lẫn nhau giữa các cường quốc trong khu vực đó, để không
một cường quốc khu vực nào sẽ ngoi được lên vị thế bá chủ khu vực, rồi
từ đó tranh hùng với Mỹ ở quy mô thế giới. Đối với Á Châu và sự vươn lên
của Trung Quốc, Mỹ sẽ đóng vai trò một kẻ cân bằng (balancer) giữa các
cường quốc khu vực là Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ, và Triều Tiên (sẽ thống
nhất sau này). Sự cân bằng đó có mục đích là sẽ không để cho cường quốc
nào trong các cường quốc đó lấn át hoàn toàn được các cường quốc còn lại
để trở nên bá chủ Á Châu. Duy trì thành công sự cân bằng đó sẽ giúp Mỹ
giữ vững vị thế bá chủ thế giới của mình, mà không cần phải trực tiếp
can thiệp một cách tốn kém. Trong bàn cờ cân bằng đó, khối ASEAN nói
chung, và Việt Nam nói riêng, là những quân cờ hữu ích, nhưng không nằm ở
tầm chiến lược quốc tế; hay đúng hơn là không thuộc phạm vi trách nhiệm
chính của Mỹ. Mỹ vẫn duy trì quan hệ chặt chẽ với khối này và Việt Nam,
nhưng chỉ về mặt kinh tế và ở mức chiến lược hạn hẹp thôi. Việt Nam, và
cả khối ASEAN, không có giá trị chiến lược thế giới để Mỹ sẳn sàng vì
đó mà chấp nhận một cuộc đụng độ quân sự với Trung Quốc. Trong tương
quan với Trung Quốc, Mỹ sẽ để cho Nhật Bản, Ấn Độ và Triều Tiên hành xử
như những đối trọng với Trung Quốc, vì điều đó phù hợp với nhu cầu thiết
thân của ba cường quốc đó trong khu vực Á Châu. Chính Nhật Bản mới là
kẻ quan tâm nhất và sẳn lòng phản ứng quyết liệt đối với sự vươn lên của
Trung Quốc ở Thái Bình Dương. Nói cách khác trong quan hệ với Trung
Quốc thì Nhật Bản, chứ không phải Mỹ, có nhiều quyền lợi gắn bó, tương
đồng với Việt Nam hơn.
Mặt khác, cũng trên căn bản Quyền Lực, xét về khía cạnh địa lý chính
trị, Biển Đông chưa hẳn đã quan trọng hơn Đài Loan, vốn được xem là một
hàng không mẫu hạm (tàu sân bay) không chìm (unsinking carrier) của Mỹ.
Có thể quan sát phản ứng của Mỹ đối với Đài Loan để suy diễn phần nào
thái độ của Mỹ đối với Biển Đông. Những lần căng thẳng gần đây nhất ở
Đài Loan cho thấy là khả năng để Mỹ can thiệp mạnh bằng quân sự nhằm bảo
vệ hòn đảo ấy ngày càng giảm tương xứng với sức mạnh ngày càng tăng của
Trung Quốc. Chẳng hạn như trong vụ căng thẳng năm 1995-1996, để phản
ứng với việc tập trận bằng hoả tiển thật, chuyển quân và thực tập đổ bộ
trong vùng rất gần với Đài Loan của Trung Quốc, phía Mỹ tuy có đưa hai
hàng không mẫu hạm (HKMH) Nimitz và Interdependence đến vùng biển, nhưng
chỉ đứng xa thôi, chứ không dám tiến gần tầm tác xạ tập trận của Trung
Quốc. Phản ứng đó của Mỹ rõ ràng yếu hơn nhiều so với phản ứng cách
trước đó chỉ chừng 10 năm. Trung Quốc ngay cả đã ngầm tung ra trước dư
luận câu hỏi về việc liệu Mỹ có sẳn sàng coi trọng Đài Loan hơn Los
Angeles và hai HKMH kia của mình không; ám chỉ rằng quân đội Trung Quốc
(PLA) đã có hoả tiển liên lục điạ đủ khả năng để tiêu diệt các HKMH và
bắn đến tận lãnh thổ của Mỹ nếu tranh chấp bùng nổ lớn. Trước đó, năm
1995, Trung Quốc đã áp lực chính phủ Mỹ không được cấp chiếu khán chính
thức cho TT Đài Loan, ông Lee Teng Hui, viếng thăm trường Đại học
Cornell khi trường này mời ông ta với tư cách là cựu sinh viên tốt
nghiệp ở đó. Ông Hui đã phải, nhân đang trên đường đi Nam Phi, ghé lại
phi trường quân sự ở Honolulu, ngũ lại trên phi cơ, sau đó đến trường
Cornell, không được chào đón bằng nghi lễ quốc khách nào cả!
Những sự kiện trên đây về mối quan hệ Mỹ-Trung Quốc-Đài loan một lần
nữa khẳng định vai trò quan trong của yếu tố Quyền Lực trong quan hệ
quốc tế. Cũng từ trên nền tảng Quyền Lực đó, có thể dự đoán rằng trong
tương lai, nếu sự vươn lên của Trung Quốc vẫn giữ được như đà hiện nay,
Đài Loan rồi sẽ vuột khỏi tầm khống chế của Mỹ, rơi vào tay Trung Quốc,
và đến lúc đó khả năng để Mỹ có thể giúp Việt Nam và khối ASEAN kìm hảm
được sức bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc ra vùng ĐNA sẽ xuống rất
thấp, nếu không muốn nói là zero! Ngay cả Philippines cũng sẽ khó mà
hoàn toàn được sự che chở của Mỹ để bảo toàn chủ quyền của mình trên các
đảo nhỏ ở ngoài khơi Thái Bình Dương.
Tóm lại, về mặt hình thức tuy mối bang giao giữa các quốc gia trên
thế giới có thay đổi, hệ thống đế quốc-thuộc địa cũ của thế kỷ 19 đã
không còn, và thế giới từ giữa thế kỹ 20 đã chuyển qua một hệ thống mới
hơn. Nhưng bản chất của các quan hệ quốc tế giữa các quốc gia, cũng
giống như bản chất của cuộc đấu tranh sinh tồn của loài người, đã không
hề thay đổi, vẫn là mối quan hệ tranh chấp đặt căn bản trên sự theo đuổi
quyền lợi vị kỷ. Phương tiện chính yếu để đạt được và bảo vệ quyền lợi
ấy của từng quốc gia là Quyền Lực (power). Tùy theo mức quyền lực thủ
đắc mà các quốc gia có được điạ vị quốc tế của mình, các cường quốc hoặc
sẽ thuộc về loại cường quốc khu vực hay siêu cường toàn cầu. Chính là
mối tương tranh quyền lực này đã định hình toàn bộ lịch sử bang giao
quốc tế cho đến nay chứ không phải là những giá trị mang tính lý tưởng
hay đạo đức nào khác. Chỉ có đứng trên quan điểm về Quyền Lực này mới
giúp chúng ta hiểu rõ và giải thích đúng đắn các diễn biến chính trị
hiện nay, nhận ra những sai lầm trong thế giới quan của thế hệ đi trước,
và soi rọi đường hướng mới cho các thế hệ tương lai.
Trương Đình Trung
Ngẫu hứng khi đọc một số bài bình luận thời sự Việt Ngữ.