Anh Gấu Phạm
Về đến Mỹ, Khanh bắt tay ngay vào việc gỡ băng thu âm cuộc đối
thoại Hà Nội. Anh mất 19 tiếng để ghi xuống và dịch các đoạn nói chuyện
trong buổi gặp kéo dài vỏn vẹn có một tiếng rưỡi. Khanh gửi bản dịch cho
John để John chấp bút bài báo. Bài được đăng trong số tháng Mười một
của George với nhan đề: The George Interview: Vietnam’s Ruthless Warrior
General Vo Nguyen Giap (Mục Phỏng vấn của George: Tướng Võ Nguyên Giáp -
Chiến binh Tàn nhẫn của Việt Nam.) Chữ ruthless trong tiếng Anh không
nhất thiết có hàm ý nặng nề như tàn nhẫn trong tiếng Việt mà thường được
dùng để nhận xét một người như không nương tay, không lụy tình, cứng
rắn, lạnh lùng.
Bài báo khởi đầu với một đoạn giới thiệu về xuất thân và tóm tắt thân
thế sự nghiệp của Tướng Giáp với một trọng tâm dễ hiểu về cuộc chiến
Việt Mỹ. Đoạn này có những trích lời của Cụ Giáp về chiến tranh nhân
dân, những thứ công thức mà ai đã đọc các hồi ký của Cụ chắc đều đã quen
thuộc. Tác giả giải thích tính thiện chiến của quân đội [nhân dân Việt
Nam] là kết hợp của tinh thần “ai cũng phải chiến đấu chống giặc” với
việc huấn thị tư tưởng chính trị liên tục. Tướng Giáp có niềm tin rằng
một đội quân du kích có kỷ luật có thể chiến thắng một quân đội thông
thường dù họ có vũ trang tối tân đến đâu. Tác giả cho rằng cuộc chiến
tranh chống Pháp đã chứng tỏ quan điểm này của ông Giáp là đúng và trong
cuộc chiến tranh chống Mỹ ông đã một lần nữa tìm cách khai thác những
nhược điểm của đối phương.
Trang đầu bài báo
Điểm yếu chính của đối phương được coi là họ [quân Mỹ] thiếu năng lực
đạt được các mục tiêu chính trị cần thiết để có được một chiến thắng
quân sự lâu dài, ông Giáp đã sửa đổi các chiến thuật theo hướng này. Nói
về quân Mỹ, bài báo trích lời ông Giáp nói rằng quân đội của ông sẽ
đánh thắng quân Mỹ lúc họ có nhiều quân, nhiều vũ khí, nhiều hy vọng
thắng trận nhất; bởi vì những ưu thế quân sự đó sẽ giống như cối xay
nghiến vào cổ họ. Ông đã kéo dài cuộc chiến càng lâu càng tốt để làm cạn
kiệt nguồn lực và tinh thần chiến đấu của đối phương, đồng thời lợi
dụng tinh thần phản chiến dâng cao bên dân Mỹ.
Tác giả cũng nhắc lời tướng Westmoreland về việc tướng Giáp là tay
nướng quân không ngần ngại. Bằng chứng đưa ra là chính lời của Cụ Giáp
được ghi lại nói rằng “hàng phút có hàng trăm, hàng ngàn người chết trên
thế giới, thế thì nếu có 10 ngàn người hy sinh, dù họ có là đồng bào
của chúng tôi đi nữa, thì cũng chưa phải là nhiều.” Tác giả bày tỏ cảm
giác khó gắn kết hình ảnh vị tướng lẫy lừng với ông già 87 tuổi ngồi
uống trà nhài và ăn bánh đậu xanh cùng tác giả hôm đó. Trước khi chuyển
sang phần hai là phần trích dẫn trực tiếp các câu hỏi đáp, tác giả kể
lại lời Cụ Giáp nói: “Tôi từng là vị tướng của chiến tranh nhưng giờ tôi
muốn là vị tướng của hòa bình.” Cụ vừa nói vừa vỗ đùi tác giả - anh
John.
Trang hai bài báo
Trong một câu trả lời về lịch sử gần đây của mối quan hệ Việt Mỹ, cụ
Giáp có nhắc đến cha của John, cố Tổng thống Kennedy, rằng khi ông lên
nhậm chức thì cụ là tổng tư lệnh và vì thế đã dành rất nhiều thời gian
để nghiên cứu những suy nghĩ và chính sách của vị Tổng thống mới. Ban
đầu, tướng Giáp cho rằng Kennedy có kế hoạch sử dụng sức mạnh quân sự để
giúp chính quyền Sài Gòn chặn đứng phong trào cộng sản nhưng sau này
nhờ vào các tài liệu lịch sử mà ông Giáp nhận ra là Tổng thống Kennedy
về sau đã thay đổi quan điểm và không còn ủng hộ chính quyền Ngô Đình
Diệm nữa và muốn duy trì một sự tham gia hạn chế của nước Mỹ trong cuộc
chiến ở Việt Nam. Ông Giáp đã đề cập đến một giả thiết là nếu Tổng thống
Kennedy không chết thì mọi thứ có lẽ đã khác, không đến nỗi [tồi] như
dưới thời các Tổng thống Johnson và Nixon. Đề cập đến quan hệ hậu chiến
và tiến trình hòa giải, ông Giáp nói rằng hai nước phải cố tìm cách hiểu
nhau, đặc biệt là các thế hệ người trẻ. Ngoài ra hai bên đều nên có
trách nhiệm chung giúp đỡ các nạn nhân của chất độc Da Cam.
Trong khoảng thời gian sau đó, Khanh bận rộn hơn với các công việc
của gia đình. Giao tiếp giữa hai người thường qua điện thoại hay email.
John đã đặt Khanh làm một bài phỏng vấn Pete Peterson, cựu tù binh Mỹ
tại nhà tù Hỏa Lò tục danh Hanoi Hilton lúc đó mới trở thành Đại sứ đầu
tiên của Hoa Kỳ tại Việt Nam sau chiến tranh. Khanh đã thực hiện bài
phỏng vấn này và bài được đăng trên tạp chí George khoảng đầu năm 1999.
Tới mùa hè năm 1999, Khanh dành phần lớn thời gian chăm sóc con trai
anh điều trị bệnh ung thư máu. Tháng Bẩy năm 1999, cháu bé hoàn thành
một đợt hóa trị kéo dài 2 năm rưỡi và Khanh quyết định đưa cháu đi sang
Los Angeles chơi. Chiều ngày 16 tháng Bẩy, Khanh cùng con trai ăn tối
sớm với Kevin, bạn thân của John là người đã cùng đi Việt Nam, để sau đó
tới xem một buổi biểu diễn của Kevin nhân anh này có nghề tay trái là
diễn hài. Lúc họ đang cùng trò chuyện về John và chuyến đi Việt Nam đầy
kịch tính mùa hè năm trước lúc 7h chiều giờ bờ Tây tức 10h tối giờ bờ
Đông Hoa Kỳ thì John đã chết rồi.
Đường bay và địa điểm tai nạn
Chiều tối ngày 16 tháng Bẩy năm 1999, John Kennedy Jr. cùng vợ là
Carolyn và chị vợ là Lauren Bessette đã tử nạn trong một tai nạn máy bay
do chính John lái bay từ New Jersey tới Martha’s Vinyard ở Massachusets
để dự tiệc cưới của một người họ hàng của John. Do nhiều nguyên nhân
(10 nguyên nhân như liệt kê của bên điều tra) mà chủ yếu là các nguyên
nhân tầm nhìn kém, phi công thiếu kinh nghiệm, không đủ huấn luyện để
bay đêm không có dụng cụ chỉ đường mà máy bay đã đâm xuống Đại Tây
Dương.
Tổng thống lúc đó là Bill Clinton đã cho phép tầu hải quân trợ giúp
trong việc tìm xác các nạn nhân và sau đó ra lệnh treo cờ nửa cột – là
hình thức treo cờ tang tưởng niệm của Mỹ - ở Nhà Trắng và các địa điểm
công cộng trên toàn quốc. Kết quả giảo nghiệm cho thấy John đã tử vong
ngay thời điểm máy bay đâm xuống mặt nước. Ngày 22 tháng Bẩy, tro xác
của John cùng vợ và chị vợ đã được khu trục hạm USS Briscoe rải ngoài
Đại Tây Dương bên bờ biển Martha’s Vinyard nơi tai nạn xảy ra. Nghi lễ
trọng thể đặc biệt này dành cho những người chỉ là thường dân được chính
Bộ trưởng Quốc phòng lúc đó là William Cohen cho phép.
Khanh nhận được điện thoại của em trai anh báo tin sáng sớm ngày hôm
sau tai nạn xảy ra khi cuộc tìm kiếm xác máy bay rơi và thi thể những
nạn nhân vẫn đang diễn ra. Anh nói là anh biết chắc là John đã chết rồi
dù lúc đó người ta chưa tìm thấy xác. Tôi không hỏi anh câu hỏi thừa là
anh có buồn không khi mất một người bạn đặc biệt như John nhưng Khanh kể
là anh có ngồi ngoài sa mạc và viết một bài dài về John để ghi lại
những thứ kỷ niệm của tình bạn giữa hai người trong khoảng thời gian 5
năm. Khanh kể lúc chúng tôi bắt đầu ăn đồ tráng miệng về một cô bé mà
John và anh đã gặp trên đường từ Hạ Long về Hà Nội. Cô bé khoảng 12 tuổi
cõng đứa em đứng xin tiền bên bến phà nào đó. Nhìn cô bé khổ cực John
nhờ Khanh hỏi chuyện rồi ra gặp mẹ cô bé tại nhà gần đó để hỏi tình cảnh
ra sao, học hành thế nào. Cha đẻ cô bé đã mất và người mẹ tái giá với
một người làm nghề xây dựng sống tạm bợ ở gần bến phà. Hàng ngày cô bé
cõng em là con của mẹ với người chồng sau ra bến phà ăn xin. John đã hỏi
xin địa chỉ của cô bé mà Khanh nhớ là Nguyễn Thị Thơm quê ở huyện Mỹ
Hào để sau đó John muốn Khanh gửi chút gì giúp đỡ. Khanh nói rằng sau
khi John mất thì anh không còn tâm trí đâu mà làm việc gì nữa và tấm
giấy để địa chỉ của cô bé kia anh cũng để lẫn đâu mất. Anh gục đầu xuống
xong lúc ngẩng mặt lên tôi nhìn thấy mắt anh có nước mắt. Anh nói anh
đúng là “thằng hứa lèo” và nói với tôi chắc sẽ tìm bằng được địa chỉ của
em Thơm để quay lại làm gì đó cho cô bé giờ chắc đã 26-27 tuổi để hoàn
thành lời hứa với John.
Số tưởng niệm trên tạp chí Time
Từ đầu bữa Khanh thỉnh thoảng lại tặc lưỡi đồ ăn này “tinh vi” quá
Khanh không biết ăn đâu. Nhưng giống như một người Hà Nội chính hiệu anh
đả bánh mì Pháp với bơ bao nhiêu cũng hết. Đồ dessert chúng tôi ăn lúc
cuối có món kem gồm ba muỗng kem dâu đặt trên một miếng đá băng lạnh tới
mức tỏa mầu xanh thẳm như nước biển sâu. Mới hôm trước tôi được đọc
trong sách Lolita của Nabokov một so sánh ẩn dụ một người mang trong
mình miếng băng đá mầu xanh thay cho trái tim, một so sánh mà giờ lúc
Khanh cúi đầu chảy nước mắt thương người bạn quá cố tôi thấy sao thật
hợp tình hợp cảnh. Chúng tôi rời phòng ăn đi ra sảnh khách sạn. Mười lăm
năm đã trôi qua kể từ buổi tiếp tân nào đó lúc Khanh và John bàn bạc về
việc “cứ đi Việt Nam đi - xin phép không được thì xin lỗi.” Khách sạn
đã được sửa sang tân tạo tới mức Khanh không nhớ ngay được chỗ mà anh và
John đã đứng. Anh hỏi hai cô tiếp tân đứng đó – trông họ trẻ tới mức mà
tôi nghĩ 15 năm trước đây chắc họ cũng chỉ là những cô gái bé như em
Thơm ở Mỹ Hào – họ cố giữ vẻ mặt nghiêm nghị phù hợp với người đang làm
việc nhưng không giấu được vẻ tò mò về người đàn ông da trắng đi đi lại
lại trong sảnh nói chuyện một mình bằng thứ tiếng châu Á nào đó mà họ
không nhận ra. Không biết nếu các linh hồn có tồn tại thì John có tham
gia cùng với bữa trưa của chúng tôi và đứng quanh đó lúc đó không.
Tôi giữ máy ghi âm chạy trong suốt thời gian chúng tôi nói chuyện với
nhau, lúc đó thời lượng thu âm đã chỉ gần 2 tiếng. Chúng tôi bước ra
khỏi cửa kính khách sạn lúc 3h chiều một buổi chiều mùa thu nắng đẹp ở
Washington DC. Tôi nheo mắt nhìn cảnh vật xung quanh và có cảm giác
choáng ngợp như vừa xem xong một bộ phim rất xúc động, rất ấn tượng, và
thật tới mức như có thể bẻ cong cảm nhận về thực tại.
Khanh bỗng hỏi tôi: “Anh muốn biết chuyện về cái quần tôi đang mặc không?”
Quả tình lúc tới đón anh tôi đã thấy cái quần đấy thật lạ. Nó như cái
quần pajama hay quần của đám du lịch ba lô, mặc rộng rãi thoải mái may
bằng thứ vải dầy và có những sọc nhỏ li ti như ô giấy kẻ caro với các
đường kẻ mầu xanh lam và các ô vuông mầu xanh lục. Tôi đã định hỏi nhưng
lại nghĩ không khéo trang phục tôn giáo gì đó mình hỏi lại thành ra mất
lòng khách nên thôi. Giờ anh hỏi tôi mới gật gù rằng tôi muốn biết.
“Lúc đi bơi thuyền bọn tôi muốn có một loại đồng phục nên tôi lấy cái
quần của Kenan làm mẫu xong tôi ra chợ Đồng Xuân mua vải về may mỗi
người trong nhóm một cái rồi đặt tên cho cả nhóm là Pác Bó Yatch Club –
Câu lạc bộ thuyền buồm Pác Bó. Hai cái mầu xanh này chính là mầu nước
biển Hạ Long và nước Bằng Giang.”