Đoàn Hưng Quốc
Uy tín và nền kinh tế của Hoa Kỳ vốn đã thiệt hại bởi đảng Cộng Hoà
phong toả ngân sách và mức trần nợ công khiến nhà nước bị tê liệt, nhưng
đến nay ảnh hưởng lây lan ra cả đến chính sách ngoại giao khi Tổng
Thống Obama phải huỷ bỏ chuyến công du họp thượng đỉnh với các nước Á
Châu trong tháng 10 để ở lại Hoa Thịnh Đốn chuẩn bị thương lượng cùng
Quốc Hội. Trong khung cảnh mà các nước trong vùng lo ngại Hoa Kỳ có dấu
hiệu lơ là đối với khu vực Đông Nam Á kể từ khi ông John Kerry nhậm chức
Ngoại Trưởng, quyết định nói trên của ông Obama càng khiến dư luận đánh
giá rằng chính sách chuyển trọng tâm sang Thái Bình Dương đang bị lung
lay.
Thế lúng túng của Mỹ thêm tương phản với thái độ rốt ráo của Bắc
Kinh: chủ tịch tối cao của Trung Quốc sang Mã Lai, Indonesia và sẽ dự
Hội Nghị Thượng Đỉnh APEC trong sự vắng mặt của ông Obama. Ông Tập Cận
Bình ký kết hiệp định đối tác toàn diện chiến lược với Mã Lai và hứa hẹn
tăng cường mậu dịch khu vực trong lúc các nước vùng Đông Nam Á e ngại
khủng hoảng chính trị kéo dài tại Hoa Kỳ sẽ tác động xấu đến nền kinh tế
của họ, như vậy ai hợp tác ai bỏ rơi ai?
Khó lòng biện hộ rằng nền dân chủ của Mỹ là một mô hình kiểu mẩu khi
một thiểu số cực hữu của đảng Cộng Hoà có thể khiến chính phủ tê liệt và
gián đoạn nghĩa vụ của mình đối với cả dân chúng trong nước và các nước
bạn. Dân chủ dựa trên nền tảng thương lượng cùng lá phiếu của đa số thì
một chính đảng đơn phương bất chấp cả hai quy tắc này và dùng thủ đoạn
nghị trường phong toả nhà nước nhằm đạt các yêu sách của mình.
Cho đến khi cánh cực hữu bị cử tri – nhất là tại các tiểu bang thành
trì của đảng Cộng Hoà như Texas là nơi có đông người Việt cư ngụ – trừng
trị bằng cách dùng lá phiếu loại bỏ ra khỏi Quốc Hội thì hàng năm họ sẽ
tiếp tục áp dụng chiến thuật này cho dù ảnh hưởng xấu thế nào đến uy
tín, nền kinh tế và chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ.
***
Trở lại chính sách chuyển trọng tâm sang Thái Bình Dương thì hai lần
Hội Nghị Thượng Đỉnh APEC lại xảy ra những vụ khủng hoảng khiến các nước
Đông Nam Á nhận thấy Hoa Kỳ bị cản trở không thể đặt trọng tâm vào khu
vực: tháng 9-2011 trùng hợp với Do Thái tấn công Palestine, và tháng
10-2013 khi đảng Cộng Hoà đẩy Hoa Kỳ vào vực thẩm ngân sách. Báo chí tập
trung vào khủng hoảng nên công luận Mỹ không còn quan tâm gì đến chính
sách tại Thái Bình Dương ngoại trừ một thiểu số chuyên viên rất nhỏ.
Cả hai trường hợp đều có thể là ngẫu nhiên nhưng không thể loại trừ
khả năng các khuynh hướng chống chuyển trục ghi nhận để tái diễn trong
tương lai.
Bắc Kinh có hai thế lực thông đồng trong chính trường Mỹ là Do Thái
và Âu Châu để cản trở chính sách chuyển trục. Cả hai khuynh hướng chẳng
những không hề xem Trung Quốc như mối đe doạ chiến lược mà trái lại còn
là đối tác kinh tế đầy triển vọng, cho nên chính sách chuyển trục của
Obama không khác gì hơn là một thách thức cho Hoa Kỳ không phù hợp với
quyền lợi của họ.
Riêng thế lực Do Thái rất thực tế rằng họ không trông chờ vào sự bền
bỉ và mức độ đáng tin cậy của nước Mỹ; trái lại họ dựa vào sức mạnh từ
trong hành lang chính trị để tạo áp lực lên Hành Pháp và Lập Pháp nhằm
duy trì sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Trung Đông. Trong trường hợp Mỹ hơi
lơ là thì họ khuấy động thành khủng hoảng với Iran, với Hezbollah hay hù
doạ với Al-Qeada để Hoa Thịnh Đốn không thể chú ý sang khu vực khác.
Đến nay thì các đối thủ của chính sách chuyển trục lại khám phá ra một
hệ lụy mới do thủ đoạn khủng hoảng ngân sách.
Người Mỹ gốc Việt không có thế lực chính trị hậu trường và thiếu
tiếng nói trên báo chí Mỹ. Điều mà chúng ta có thể làm được là nâng cao ý
thức về sinh hoạt chính trị ở Hoa Kỳ để chọn lá phiếu bầu cho đúng đắn