Tô Văn Trường
Theo Boxit Việt Nam
GS Nguyễn Lang viết bài “Về chế độ sở hữu đối với đất đai” đăng
trên Tầm nhìn, có ý kiến cho rằng phải xem lại khái niệm sở hữu toàn dân
vì nghĩ đó là quan điểm không thể thực hiện được (non-operational
concept).
Trong bài viết của GS Nguyễn Lang có nói đến lịch sử nhân loại bắt
đầu bằng đất đai công hữu, rồi đất đai thuộc nhà vua như ở Việt Nam, vua
tạm ban cho quan lại có công, nhất là khi vua không có chính sách thu
thuế để trả lương. Như vậy, đất đai sơ khởi là của tập thể, vì lúc đầu
của nhân loại phải hợp quần săn bắt, hái trái nên phải hoạt động chung.
Nhưng khi có thặng dư thì rõ ràng đất đai thuộc về kẻ có quyền lực và
nắm được quyền lực. Công hầu bá tước ở Trung Quốc và ở châu Âu đều có
đất đai riêng. Họ cho nông nô cấy rẽ. Ở Việt Nam thì chủ yếu đất đai
thuộc làng xã, hay thuộc vua, không có công hầu bá tước. Quan hay vương
thời nhà Trần cũng chỉ được tạm chia quyền xử dụng để lấy tô mà sống.
Theo chúng tôi hiểu, dù ở châu Âu, Trung Quốc hay Việt Nam đó là mầm
mống của tư hữu. Quyền tài sản tư thuộc một nhóm người. Hoàn toàn không
có cái quan điểm đất đai là của toàn dân. Khi xã hội phát triển thêm, có
công nghiệp và cần tôn trọng tư hữu thì quan điểm tư hữu cá nhân ra
đời. Từ đó nó nối liền với quyền con người, quyền được bảo vệ cái mình
làm ra, tức là bảo vệ tư hữu. Như vậy xã hội hiện nay, ở mọi nơi đều có
quyền tư hữu cá nhân, tư hữu tập thể và tư hữu nhà nước (hay gọi là công
hữu cũng được). Không thể có cái gọi là tư hữu toàn dân. Và đặc biệt là
không thể đi ngược lại lịch sử để bảo rằng quyền tư hữu là phản tiến
hóa.
Ở Mỹ đối với người da đỏ thì khi giữ quyền tư hữu tập thể thì là có
lợi nhất cho họ. Hiện nay do việc Hiến pháp Mỹ cho phép họ tự lập và tự
làm ra luật của họ, họ đã đem đất cho thuê làm sòng bạc. Họ không thể
phân chia vì không biết làm gì với đất. Như vậy không có tư hữu cá nhân
vì nó chẳng lợi gì, đất của họ so với dân thì thừa mứa.
Trao đổi ý kiến trên với GS Nguyễn Lang được ông giải thích cần phân
biệt sở hữu cá nhân đối với tư liệu tiêu dùng và đối với tư liệu sản
xuất chủ yếu. Sở hữu cá nhân về tư liệu tiêu dùng không có ai phủ nhận.
Với sở hữu cá nhân đối với những tư liệu sản xuất không phải là chủ yếu
như xe máy của người làm nghề xe ôm, vận chuyển hàng hóa, không ai phủ
nhận quyền sở hữu cá nhân. Phạm trù sở hữu với các quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt được xác nhận ngay từ đời chế độ nô lệ, qua Luật La mã
và tới nay vẫn được vận dụng.
Hiến pháp và đường lối của Đảng đều công nhận ba chế độ sở hữu là sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân (ngay cả đối với tư liệu
sản xuất). Vấn đề sở hữu của toàn dân là một thực thể đã hình thành
trong các nước, tuy cách gọi có khác nhau. Đơn giản là các tài sản được
xây dựng bằng vốn ngân sách là thuộc sở hữu toàn dân chứ không phải
thuộc sở hữu nhà nước. Sở dĩ như vậy vì ngân sách là do toàn dân góp để
hình thành và giao cho Nhà nước (thực ra là hệ thống cơ quan hành pháp)
quản lý và sử dụng chứ không giao cho hệ thống cơ quan này quyền sở hữu
đối với tài sản đó. Mặt khác, những di sản văn hóa lịch sử, những thắng
cảnh, những khu bảo tồn sinh thái (chùa Một cột, đền thờ vua Hùng, Vịnh
Hạ Long, khu rừng quốc gia Cát Tiên, v.v.) cũng thuộc sở hữu toàn dân.
Trước dó, các tài sản này thuộc về sở hữu của các cộng đồng. Khi nhà
nước ngày càng phát triển thì vai trò của cộng đông ngày càng bị thu hẹp
để thay bằng vai trò của nhà nước. Do đó, không có vấn đề tranh cãi là
có sở hữu toàn dân không vì đó là điều tất yếu. Công hầu, bá tước phương
Tây có quyền sở hữu đất đai mà họ chiếm hữu nhưng tại VN không có tình
hình đó. Tại VN, vua giao đất phong hầu nhưng không có nghĩa là đất đó
thuộc quyền sở hữu của nhà vua mà đất đó vẫn thuộc quyền sở hữu của cộng
đồng làng xã... Đây cũng là một vấn đề liên quan đến đặc điểm của
phương thức sản xuất Á đông mà Mác-Ăng ghen có đề cập đến nhưng lại
không có điều kiện nghiên cứu làm rõ. Bản báo cáo “Kinh nghiệm nước
ngoài về quản lý và pháp luật đất đai” do Bộ Tài nguyên & Môi trường
soạn thảo tháng 9/2012 có giới thiệu chế độ sở hữu Nhà nước về đất đai
tại một số nước như Israel, Nam phi, chế độ sở hữu hoàng gia tại Anh,
Nhật, Brunay, Campuchia, Indonêxia, Malaxia. Như vậy, giữa chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai, bên cạnh sự dị biệt cụ thể, vẫn có sự tương đồng
với chế độ sở hữu Nhà nước và chế độ sở hữu hoàng gia với tư cách là
“chế độ sở hữu chung về đất đai”.
Vấn đề rắc rối là muốn không công nhận quyền sở hữu toàn dân đối với
đất đai chứ không phải là phủ nhận quyền sở hữu toàn dân nói chung, cũng
không phải là quay ngược lại lịch sử mà thể hiện quá trình vận động ít
nhiều có tính quy luật đối với chế độ sở hữu. Sở dĩ như vậy vì đòi hỏi
phải thực hiện quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai. Trong thực tế,
quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai vẫn được xác nhận dưới hình thức
quyền sở hữu hạn chế, một hình thức sở hữu được luật pháp các nước công
nhận, trước hết là qua bộ Luật hình sự. Do đó, cần làm rõ quyền sở hữu
hạn chế của tư nhân đối với đất đai là như thế nào ?
Đối với đất đai, ngoài chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, còn có
chế độ sở hữu hạn chế của tư nhân đối với đất đai qua việc giao cho tư
nhân quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất nói riêng, quyền sử dụng tài
sản nói chung là một lọai hàng hóa được lưu hành trên thị trường từ dưới
chế độ nô lệ (nên có thể đó là nguyên nhân dẫn đến việc Luật La Mã phải
đề cập đến chế độ sở hữu và ba quyền liên quan). Việc mua-bán quyền sử
dụng tài sản được hợp thức hóa và Luật hóa trong bộ Luật hình sử của tất
cả các nước, trong đó có VN. Khi một người cụ thể đã mua (hoặc được
giao) quyền sử dụng tài sản đó thì người đó có quyền chiếm hữu quyền sử
dụng tài sản (không phải là chiếm hữu quyền sở hữu tài sản), quyền sử
dụng và quyền định đoạt tài sản đó. Phương Tây xác định đó là quyền sở
hữu hạn chế của người chỉ có quyền sử dụng tài sản để phân biệt với
quyền sở hữu của người có quyền sở hữu đối với tài sản đó.
Ở Mỹ, không có ý niệm sở hữu toàn dân. Chỉ có đất đai thuộc về: 1)
Nhà nước trung ương (Liên bang) 2) Nhà nước địa phương (bang, tỉnh,
thành phố). Thuộc về ai thì nơi đó được sử dụng hoặc được quyền bán hẳn
sở hữu hay bán quyền sử dụng trong một thời hạn, được hưởng lợi tức cũng
như chịu mọi trách nhiệm về chi phí bảo tồn, quản lý. Địa chỉ trách
nhiệm như vậy hết sức rõ ràng. Nếu chỉ bán quyền sử dụng thì người sở
hữu đất vẫn chịu trách nhiệm cuối cùng (nếu như để người sử dụng làm ô
nhiễm môi trường chẳng hạn), và không thể đổ lỗi cho người sử dụng.
Về tư hữu của hoàng gia thì hoàng gia được toàn quyền thu món lợi cho
gia đình họ (thí dụ như hoàng gia Anh). Rõ ràng đó là tư hữu tập thể.
Ngay ở VN, có đất thuộc vua, có đất thuộc làng và có đất thuộc cá nhân.
Đó cũng là hình thức tư hữu (của vua, của tập thể hoặc cá nhân). Của vua
hay hoàng tộc thì không ai được động đến và không thể nhân danh "toàn
dân".
Quốc hội đã và đang thảo luận về sửa Luật đất đai, cần thấu hiểu bản
chất của khái niệm sở hữu toàn dân, hình thức tư hữu. Không thể có cái
gọi là tư hữu toàn dân. Và đặc biệt là không thể đi ngược lại lịch sử để
bảo rằng quyền tư hữu là phản tiến hóa. Cần phân biệt rõ ràng thấu đáo
các chính sách thu hồi đất đai dưới các danh nghĩa khác nhau với trưng
mua theo thị trường để không đẩy người dân vào các cuộc khiếu kiện liên
miên gây bất ổn xã hội như vừa qua.
T.V.T.