Trần Đình Sử
Theo blog pro&contra
Đọc bài tiểu luận sau đây, nhiều lần tôi bật cười vì cái hài hước ẩn trong giọng văn kiềm chế của một nhà nghiên cứu hàn lâm, một nhà sư phạm: GS Trần Đình Sử đã giảng dạy Lí luận Văn học hơn hai mươi năm tại Trường ĐHSP Hà Nội, nơi ông cũng từng làm Chủ nhiệm khoa Ngữ văn. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ cho cụm công trình nghiên cứu về Thi pháp học. Từ mười năm nay ông là ủy viên Hội đồng Lí luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương. Với một sự nghiệp như vậy, những nhận định của ông về nền “phê bình kiểm dịch” trong bài viết này không phải là đúc kết của một người đứng bên lề. Tôi tin rằng một “bộ phận không nhỏ” thuộc giới nghiên cứu và phê bình văn học trong môi trường chính thống ở Việt Nam hiện nay, dù không hay chưa hiển ngôn, chia sẻ quan điểm của ông. Tôi xin nồng nhiệt quảng cáo bài viết này đến tận màn hình của các công chức văn học đang cố gắng lo tròn bổn phận kiểm dịch “luận văn Mở Miệng“.
Phạm Thị Hoài
________________
Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp Albert Thibaudet (1874-1936) trong sách Sinh lí học phê bình (1922) thì phê bình chuyên nghiệp đối lập với phê bình tự phát.
Phê bình tự phát là loại phê bình tự nhiên của người đọc. Đọc xong một
cuốn sách hay thì vỗ đùi khen, nếu đọc cuốn sách dở, buột miệng chửi một
tiếng, hay khi trà dư tửu hậu, hoặc lúc dạo chơi với bạn bè, bàn bạc
mấy câu về cuốn sách nào đó… Đó là phê bình tự phát. Loại phê bình này
chủ yếu là phê bằng miệng, bằng động tác, như phẩy tay, dẩu miệng… đều
là tự phát cả. Sau này trong các xa lông sang trọng của các bà quý tộc,
các bà mệnh phụ sau cuộc chơi bài, đàm đạo mấy cuốn sách vừa xem, đó vẫn
là phê bình tự phát. Anh Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, khi nghe vợ đọc Tam quốc diễn nghĩa,
đến chỗ hay, vỗ đùi đánh đét khen: “Tài thật, Tài thật. Tài đến thế là
cùng. Tiên sư anh Tào Tháo!”, “Tiểu thuyết thì nhất anh Tàu”. Đó cũng là
phê bình tự phát. Phê bình tự phát có mọi nơi, mọi lúc, đồng hành cùng
sinh hoạt văn học của con người. Dù cho phê bình chuyên nghiệp có chết
hết đi thì phê bình tự phát vẫn sống. Phê bình tự phát khi thành dư luận
mạnh mẽ buộc phê bình chuyên nghiệp phải nhào vô giải thích. Phê bình
tự phát thường có ba nhược điểm. Một là thường nói theo, nói leo. Người
đã đọc sách nhận xét đã đành, người không đọc cũng nghe rồi nói theo,
bàn tán, thực ra là nói mò. Hai là phê bình tự phát dễ biến thành ý kiến
nhóm, có thói quen riêng, thiếu cái nhìn toàn bộ, dễ thiên lệch. Ba là
dễ chạy theo thời thượng, đồng thời cũng nhanh chóng bị thay thế, thiếu
bền vững, hôm nay vừa khen, ngày mai thấy nói khác, lại nói theo, số
phận ngắn ngủi. Có một thời, sách xuất bản xong liền có cán bộ đi thu
thập ý kiến bạn đọc các giới, kết quả thu được chỉ là các dư luận như
thế, rất ít tính khoa học. Tất nhiên phê bình chuyên nghiệp cũng góp
phần định hướng cho phê bình tự phát, giúp nó sâu sắc hơn.
Phê bình văn học phát triển đến một lúc nào đó thì nảy sinh ra sự
phân công, và thế là xuất hiện các loại phê bình, trong đó có loại phê bình kiểm dịch.
Nhà tư tưởng Khai sáng Pháp là Voltaire (1694–1778) có lần nói: “Chúng
ta nhìn thấy, trong các nước hiện đại, khi người ta ra sức phát triển
văn học thì có một số người trở thành nhà phê bình chuyên nghiệp, cũng
giống như người ta muốn kiểm tra các loại lợn đem ra thị trường có bệnh
hay không, người ta đã thiết lập những người chuyên môn kiểm tra lưỡi
lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không phát hiện được
một nhà văn nào là lành mạnh cả” (Sách đã dẫn của Thibaudet, Nxb Tam
Liên, Thượng Hải, năm 2002, tiếng Trung, tr. 74). Xin chú ý mấy chữ này
của Voltaire: phê bình kiểm dịch trong văn học không phát hiện được ai là lành mạnh cả.
Nó là nghề phát hiện bệnh của văn học. Như thế, có thể coi nhà phê bình
chuyên nghiệp đầu tiên là người có chức năng giống như nhân viên thú y
kiểm dịch ngoài chợ, thấy có bệnh thì kêu lên, để mọi người tránh xa,
không mua hàng đó. Cứ theo chức năng ấy thì nhà phê bình chuyên nghiệp
kiểm dịch đầu tiên của nhân loại phải kể đến Đức Khổng Tử bên Tàu. Khổng
Tử đã lựa hàng vạn bài ca dao, dân ca của các nước trong lãnh thổ Trung
Hoa cổ đại, chọn lấy 305 bài, theo tiêu chí “tư vô tà”, tức là tư tưởng
không có gì sai trái, lệch lạc, đồi trụy, có thể lưu hành. Còn các bài
khác “có tà” đã bị ông vứt bỏ, thất truyền hết. Nhưng Khổng Tử là nhà
kiểm dịch lỗi lạc, bởi trong tư tưởng của ông, lấy ngôn chí, tải đạo làm
gốc, có sự thống nhất giữa mĩ và thiện, chấp nhận thi ca có thể hứng,
quan, quần, oán, văn chất thống nhất với nhau, cho nên 305 bài vẫn bao
hàm đủ các tác phẩm xuất sắc, đa dạng. Platon, người Hi Lạp (427– 327),
sống sau Khổng Tử 100 năm (552-479) cũng là nhà phê bình kiểm dịch.
Nhưng khác với Khổng Tử, Platon quá cực đoan, ông coi thi ca (văn học)
đều là ôn dịch, nên ông đuổi tất ra khỏi nước Cộng hòa lí tưởng của ông.
Nhìn theo lịch sử như vậy ta sẽ thấy từ khởi thủy phê bình chuyên
nghiệp, phân biệt với phê bình tự phát, trước hết là loại phê bình kiểm
dịch mà Voltaire đã nói. Nhưng phê bình kiểm dịch đời sau ngày một kém.
Nó chỉ quan tâm tới sự lành mạnh của văn học theo tiêu chí hình thức,
hay tiêu chí đạo đức hay chính trị quốc gia, mà không hề quan tâm đến
giá trị nghệ thuật đích thực. Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch này.
Theo Thibaudet, thế kỉ XVII Tể tướng của vua Louis XIII là Richelieu
đã đem phê bình kiểm dịch áp đặt cho Viện Hàn lâm Pháp. Bất đắc dĩ Viện
Hàn lâm Pháp phải chấp nhận, nhưng cũng chỉ sử dụng có một lần duy nhất
rồi thôi. Phê bình kiểm dịch Pháp chỉ đơn giản là đem tác phẩm văn học
ra đối chiếu với các quy phạm thể loại, tuy nó thấy tác phẩm nào cũng
không hợp chuẩn, nhưng văn học “lệch chuẩn” không bị nó đem ra đốt, văn
sĩ không mấy người bị đem đi chôn. Sau thế kỉ XVII phê bình chuyên
nghiệp châu Âu chuyển sang phê bình học thuật và hàn lâm, phê bình kiểm
dịch tất nhiên vẫn còn, nhưng nói chung không còn trở ngại cho các công
trình nghiên cứu học thuật.
Ở Trung Quốc xưa kia phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng phát hiện
các vụ án văn tự ngục khiến bao nhiêu văn sĩ rơi đầu. Đó là lối đọc văn
cắt xén, suy diễn để quy tội phản lại triều đình, phản loạn, nhằm khép
đối tượng vào tội chết. Vụ án văn tự ngục đầu tiên của Trung Quốc xảy ra
vào thời Chiến Quốc, quyền thần nước Tề gian ác, giết vua, sử quan ghi
đúng sự thật, bị khép vào tội chết, đem chém đầu. Suốt lịch sử Trung
Quốc, đã có hàng chục vạn người chết vì văn tự ngục. Riêng đời Thanh văn
tự ngục giết chết 200 người, liên lụy trên ba nghìn người. Thời phong
kiến nước ta cũng thế. Trong các cuộc đấu tranh tư tưởng ở Trung Quốc
suốt thời kì Mao Trạch Đông thống trị, đến Cách mạng Văn hóa, phê bình
kiểm dịch thực hiện chức năng chỉ ra đâu là dấu hiệu của tư tưởng phong
kiến, đế quốc, tư sản, xét lại, đồi trụy, chống Đảng, chỉ ra ai là kẻ
thù, đẩy hàng chục vạn người đi lao động cải tạo, bức hại, nhiều người
tự tử. Diêu Văn Nguyên, một trong lũ bốn tên, là nhà phê bình kiểm dịch
khét tiếng nhất, gian ác nhất. Chu Dương suốt đời trung thành với Mao,
thế mà cuối cùng bị Diêu Văn Nguyên tố cáo chống lại tư tưởng của Mao,
phải đi lao động trong chuồng lợn. Ở nước ta, trong thời kì bắt đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, phê bình chuyên nghiệp cũng thực hiện nhiệm vụ
kiểm dịch, chỉ ra các biểu hiện tư sản, phản động, đồi trụy, xét lại,
bôi đen chế độ… Ở nhiều giai đoạn, loại phê bình kiểm dịch này cũng
thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện kể năm 2000, Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng bị
phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có
vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan
trọng nào cả. Lấy tác phẩm Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân làm ví dụ. Người đầu tiên “có công” phát hiện Vào đời “có vấn đề” là Nguyễn Phan Ngọc, người kết luận nặng nề nhất là Hồng Chương, giữa thời gian đó, theo thông tin trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3–1963, trong hơn một tháng đã có 43 bài phê bình lớn nhỏ đăng trên hầu hết các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Tiền phong, Cứu quốc, Thống nhất, Độc lập, Thủ đô Hà Nội..,
hầu hết đều ghi tên biệt hiệu, không ghi tên thật. Kết quả là Hà Minh
Tuân bị cách chức Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, điều chuyển sang Bộ
Thủy sản, làm chuyên viên cá nước lợ, mãi đến năm 90 ông mới đuợc phục
hồi.
Các dẫn chứng nói trên cho thấy, phê bình kiểm dịch có lịch sử lâu
đời và có chức năng đảm bảo cho văn học được lành mạnh theo quan điểm
nhà nước. Ngày nay ở Trung Quốc phê bình kiểm dịch cũng thịnh hành. Các
tác phẩm như Phế đô, Báu vật của đời, Búp bê Thượng Hải,… đều bị cấm, nhưng Báu vật của đời
lại được Giải Nobel. Điều này cho thấy phê bình kiểm dịch tuy có tính
chuyên nghiệp, đúng hơn là tính nghiệp vụ, song chất lượng thực tế có
nhiều vấn đề đáng bàn, có những sai sót và nhiều khi gây hậu quả không
thể sửa chữa được. Phê bình kiểm dịch thường có mấy đặc điểm chung như
sau:
Thứ nhất: Vì văn học là hiện tượng phức tạp, nên phê bình
kiểm dịch không thể làm thí nghiệm, khó tìm được những tiêu chí khách
quan để kiểm dịch văn học giống như bác sĩ thú y kiểm dịch lưỡi lợn
ngoài chợ. Nguyên tắc “phương pháp luận” mà phê bình kiểm dịch thường
dựa vào để phát hiện “dịch bệnh” là cắt xén, suy diễn, quy chụp, cốt rút ra cho được cái mục tiêu tư tưởng của mình.
Thứ hai: Phê bình kiểm dịch thường tố lên tác hại nghiêm
trọng của ổ dịch, kích động xã hội cảnh giác, gieo rắc niềm lo lắng sợ
hãi, gây không khí bất an trong đời sống xã hội.
Thứ ba: Sau khi phát hiện ổ bệnh trong văn học, các nhà phê
bình kiểm dịch rất hồ hởi, tự hào về công lao phát hiện luận điệu sai
trái, chỉ tên kẻ thù địch trong nội bộ để xử lí. Đặc biệt không mảy may
quan tâm số phận những người hữu quan. Hình như, đã là kẻ thù của chế độ
thì còn tiếc thương gì nữa?! Đối với họ văn học chỉ có một nghĩa là
nghĩa xấu, các nghĩa khác đều bị giản lược.
Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm dịch om sòm trên
văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân văn-Giai
phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi trụy ở chỗ nào?
Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó cũng là phê bình
chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình
kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều
giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm
tới tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý
nghĩa tồn tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực.
Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học.
17–7–2013
Nguồn: Blog Trần Đình Sử