Nguyễn Thanh Văn
Kính gửi quý cơ quan truyền thông báo chí,
Sau kết quả Hội nghị Trung Ương 6 và 7, đối với các đảng viên cộng
sản, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng được xem là “tấm gương thành công nhất”
về cách làm ra và sử dụng đồng tiền một cách hiệu quả. Tiền đã trở thành
sức mạnh vô địch, mạnh hơn cả quyền lực Bộ chính trị. Vì vậy, lý tưởng
Cộng sản ngày nay còn bao gồm quyết tâm cào cho thật nhanh và giữ cho
chặt khối của cải riêng. Theo các thống kê quốc tế, hàng ngàn đảng viên
Cộng sản ngày nay đã có tài sản riêng ở mức vài trăm triệu đến vài tỷ mỹ
kim.
Kính mời quý vị đọc bài viết “Lý Tưởng Cộng Sản Thế Kỷ 21” của tác giả Nguyễn Thanh Văn và kính mong được tiếp tay phổ biến.
Trân trọng
Mai Hương
Trưởng Ban Liên Lạc Truyền Thông Đảng Việt Tân
Trưởng Ban Liên Lạc Truyền Thông Đảng Việt Tân
============================================
Nguyễn Thanh Văn - Lý tưởng Cộng Sản thế kỷ 21
Có nhiều định nghĩa về hai chữ “lý tưởng“. Lý tưởng là ngọn đèn chỉ
đường; là ước mơ, hoài bão và luôn muốn biến ước mơ, hoài bão đó thành
sự thật; là những tư tưởng cao cả, tốt đẹp nhất, định hướng cho cuộc
sống của con người; là nguồn động lực, chất xúc tác giúp ta đạt được
những gì mong muốn dù gặp khó khăn nguy hiểm; là mục đích tốt đẹp nhất
mà người ta phấn đấu, đôi khi phải hy sinh hạnh phúc của chính mình để
đạt tới…
Khi Quốc Tế Cộng Sản được hình thành vào khoảng đầu thế kỷ 20, thế
giới lúc đó nghe nhiều đến lý tưởng cộng sản. Theo Lênin, trong giai
đoạn đấu tranh giành chính quyền, đảng viên có lý tưởng cộng sản là
những người trung thành vô giới hạn đối với Chủ nghĩa Cộng sản theo định
nghĩa của Các Mác và Lênin (gọi tắt là Chủ nghĩa Mác-Lê), trung thành
với sự nghiệp của giai cấp vô sản, suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự
nghiệp của giai cấp vô sản, phục vụ hết lòng giai cấp vô sản và nhân dân
lao động. Và khi đảng Cộng sản đã giành được chính quyền, thì đảng viên
phải trung thành với "lý tưởng của Đảng", tức là bằng mọi giá phải xây
dựng thành công chủ nghĩa cộng sản tại từng nơi, rồi tiến lên thế giới
đại đồng, không còn biên giới quốc gia, không ai thống trị ai, xã hội
thực sự bình đẳng, không còn cảnh người bóc lột người, và con người làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu….
Ông Hồ Chí Minh là một trong những người gốc Việt Nam đầu tiên được
đúc theo khuôn mẫu lý tưởng Cộng sản nói trên. Sau đó ông huấn luyện lại
cho thế hệ đảng viên kế tiếp và từng bước biến thành cái gọi là "đạo
đức cách mạng". Trong bài giảng có tên "Đạo Đức Cách Mạng“ vào năm 1958,
ông Hồ lập lại đầy đủ những ý niệm của Lênin nêu trên cùng với các luận
cứ phê phán "cá nhân chủ nghĩa" và xem đó là kẻ thù của sự nghiệp tiến
lên chủ nghĩa Cộng sản [1]. Sau đó, trong bài “Tổng Kết 13 năm Hoạt Động
của Đảng CSVN“, năm 1960 [2], ông Hồ cũng lập lại và nhấn mạnh thêm
những điều này. Và còn nhiều tài liệu khác nữa. Tóm tắt là định nghĩa
nguyên thủy về lý tưởng Cộng sản tại Liên Xô được truyền đến Việt Nam
không đổi.
Chỉ đến khi hai nước cộng sản đàn anh lớn nhất, Liên Xô và Trung
quốc, trở mặt chống nhau để tranh giành vị trí cầm đầu phong trào Quốc
Tế Cộng Sản, thì niềm hy vọng và mục tiêu "cao cả" xây dựng thế giới đại
đồng theo chủ nghĩa Cộng sản tan thành mây khói. Và cái gọi là "lý
tưởng cộng sản" bắt đầu được các phe trong thế giới Cộng Sản định nghĩa
lại để phục vụ cho lợi ích của phe mình. Có những lãnh tụ như Thống chế
Josip Tito của Yougoslavia chỉ dùng chủ nghĩa Cộng sản để củng cố ghế
cai trị của mình và hành xử khá độc lập, chứ không thiết tha gì đến thế
giới Cộng sản hay các ông anh lớn nữa. Vô số những người Cộng sản trên
khắp thế giới kinh ngạc và bắt đầu hồ nghi các kinh điển Cộng sản khi
nhìn các cuộc giao tranh biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc kéo dài
hàng chục năm trời, với những cuộc chạm súng đẫm máu ở vùng Hắc Long
Giang.
Tại Việt Nam, đã có khá nhiều đảng viên Cộng sản lão thành thú thật
rất ít người Việt tham gia đảng Cộng sản vì hiểu chủ nghĩa Cộng sản là
gì hay vì thấy lý tưởng Cộng sản cao đẹp. Trong thời kháng chiến chống
Pháp, rất đông người gia nhập đảng CSVN vì lý tưởng muốn giải phóng đất
nước. Vào thời đó, nhiều người cho rằng đường lối của đảng CSVN có xác
suất thành công cao nhất. Tinh thần này kéo dài qua cuộc chiến chống Mỹ.
Nhiều đảng viên đi theo tiếng gọi của lãnh đạo vì lý tưởng "giải phóng
đồng bào ruột thịt đang bị đàn áp dưới gót giày của đế quốc Mỹ". Chỉ khi
vào đến nơi và nhìn tận mắt xã hội miền Nam năm 1975 họ mới vỡ lẽ và
biết mình bị lừa. Có lẽ tiếng nói mạnh nhất diễn tả tâm trạng này là của
nhà văn Dương Thu Hương. Những năm tháng cai trị ngặt nghèo và liên tục
đập bỏ mọi thành tựu đang có tại Miền Nam để xây dựng CNXH càng làm
giật mình những đảng viên Cộng sản chưa một lần ra Bắc. Đơn giản vì xã
hội Miền Nam trước 1975 còn tự do, còn có nhà nước pháp quyền, và còn
tôn trọng con người hơn nhiều. Lý tưởng Cộng sản rớt xuống một tầng thấp
mới. Nhiều đảng viên nhận ra lãnh đạo đảng nhất quyết "giải phóng" Miền
Nam chẳng phải vì người Việt, mà chỉ để biến cả nước thành một phần của
Khối Cộng Sản, rồi lại hãnh diện tình nguyện làm ngọn cờ đầu của Quốc
Tế Cộng Sản đi "giải phóng" tiếp các nước Đông Dương và Đông Nam Á. Tất
cả được trả bằng máu người Việt Nam.
Lý tưởng đưa toàn vùng vào vòng tay Cộng sản đó - được ghi rõ trong
bài bản học tập của đảng viên các cấp - chỉ khựng lại vào khoảng giữa
thập niên 1980, khi ngân khố Liên Xô cạn kiệt. Đến năm 1989 khối Cộng
Sản Đông Âu sụp đổ, rồi Liên Xô cũng sụp đổ luôn. Gần cả tỉ con người
vứt bỏ chủ nghĩa Mac-Lê và bắt đầu xây dựng thể chế dân chủ tự do. Giữa
cơn hoang mang, bơ vơ lạc lõng, và loay hoay tìm phương hướng mới của
giới lãnh đạo đảng CSVN, ông Trần Xuân Bách, Ủy viên Bộ chính trị, đề
nghị một lý tưởng mới - lý tưởng trở về với dân tộc, bỏ con đường mòn
bám chân các anh lớn Cộng sản. Ông đề nghị cải cách chính trị, chấp nhận
đa nguyên, dân chủ hóa xã hội hầu đáp ứng khát vọng của dân tộc và để
đất nước đi theo xu thế chung của thời đại.
Nhưng thay vì can đảm hướng theo lý tưởng đặt dân tộc trên hết của
ông Trần Xuân Bách, giới lãnh đạo đảng lúc đó lập tức cho đó là âm mưu
chính trị của những "thế lực phản động quốc tế" nhằm xóa sổ đảng CSVN
như đã xóa đảng Cộng sản Liên Xô. Họ tước ngay mọi chức vụ và thẳng tay
trừng phạt ông Trần Xuân Bách. Cùng lúc, để cứu đảng, Bộ chính trị làm 2
việc: Khoác lên mình lá cờ dân tộc và đi tìm chỗ dựa mới. Để khoác áo
dân tộc và thay thế các ông thần Cộng sản rước về từ Liên Xô, họ bắt đầu
thôi coi các anh hùng dân tộc chỉ là sản phẩm của chế độ phong kiến; và
khởi động việc phát minh món "hàng nội hóa" mới có tên là "tư tưởng Hồ
Chí Minh" bất kể khi còn sống ông Hồ đã xác nhận công khai nhiều lần ông
không có tư tưởng nào khác ngoài các tư tưởng của Mác-Lênin-Stalin-Mao.
Và để tìm chỗ dựa mới thay thế cho khoảng trống Liên Xô, ngày 3/9/1990
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười, và Cố vấn Phạm Văn Đồng
lặn lội qua Thành Đô, Trung Quốc xin nối lại mối bang giao đã bị cắt đứt
kể từ năm 1979 và xin Bắc Kinh bảo trợ. Họ dư biết Bắc Kinh chẳng cho
không điều gì, đặc biệt sau 10 năm đánh nhau đầy cay đắng. Họ cũng biết
tâm địa của Bắc Kinh đối với chủ quyền Việt Nam vì chính họ đã in sách
liệt kê đầy đủ các chứng cớ và thủ thuật quỉ quyệt của Bắc Kinh, đặc
biệt là cuốn SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM -TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA do
Nhà xuất bản Sự Thật phát hành vào tháng 10/1979. Rõ ràng kể từ thời điểm này lý tưởng Cộng sản là giữ đảng bằng mọi giá, dù giá đó là chủ quyền quốc gia.
Lý tưởng bỏ nước giữ đảng được tiến hành từng bước liên tục từ đó
đến nay, từ các hiệp ước dâng nhượng đất trên bộ mà các bản đồ đến nay
lãnh đạo đảng vẫn không dám tiết lộ, đến hiệp ước dâng nhượng lãnh hải
trong vịnh Bắc Bộ, đến mấy chục khu rừng đầu nguồn, rừng biên giới, đến
"mái nhà Đông Dương", v.v... kéo dài đến 10 thỏa ước mà Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang vừa ký kết vào tháng 6/2013. Giới lãnh đạo đảng có vẻ
tin tưởng và chấp nhận giải pháp để cho Bắc Kinh chiếm từ từ chủ quyền
Việt Nam như đang thấy, vì như vậy đảng vẫn cai trị được vài chục năm
nữa mới mất hết.
Với lý tưởng mua thời gian đó, các đảng viên cao cấp bắt đầu đua
nhau làm giàu. Trước hết, họ bán tất cả những gì có thể bán được, từ
khoáng sản đến cô dâu. Kế đến họ giành trọn mọi cửa ngỏ buôn bán với
nước ngoài cho gia đình và phe cánh, từ xuất nhập cảng trong mọi ngành
nghề đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Và sau hết, họ cướp luôn tài sản
của nông dân, và tiếp tay các công ty nước ngoài trấn áp công nhân.
Tóm lại, đảng của giai cấp công nông đã biến mất mà chỉ còn tập đoàn tư
bản đỏ ngồi ghế cai trị. Và lý tưởng của đảng viên ngày nay là được ngồi
vào những chiếc ghế đó.
Hiển nhiên, những chiếc ghế càng béo bở càng có nhiều đảng viên thèm
thuồng. Thực tế này không chỉ dẫn đến những đấu đá chí mạng để giành
ghế mà còn tạo hiện tượng kiếm ăn cực kỳ gấp rút và bất chấp mọi tác hại
trong thời gian đang giữ ghế. Vì khối tiền thu được sẽ giúp làm 3 việc:
Dùng để mua vây cánh bảo vệ ghế hiện tại; dùng để tranh những ghế béo
bở lớn hơn; và dùng để mua bảo hiểm cho ngày hạ cánh an toàn. Tiền đã
trở thành sức mạnh vô địch, mạnh hơn cả quyền lực Bộ chính trị. Đối với
nhiều đảng viên, sau kết quả Hội nghị Trung Ương 6 và 7, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng được xem là tấm gương thành công về cách làm ra cũng như
sử dụng đồng tiền hiệu quả. Vì vậy, lý tưởng Cộng sản ngày nay còn bao gồm quyết tâm cào thật nhanh và giữ cho được khối của cải riêng.
Theo các thống kê quốc tế, hàng ngàn đảng viên Cộng sản nay đã lên hạng
có tài sản riêng ở mức vài trăm triệu đến vài tỷ mỹ kim.
Nên nếu phải mô tả thật ngắn gọn, người ta có thể tóm tắt lý tưởng Cộng sản tại Việt Nam vào đầu thế kỷ 21:
• Thà mất nước chứ không mất đảng.
• Thà mất đảng chứ không mất ghế.
• Thà mất ghế chứ không mất của.
• Thà mất đảng chứ không mất ghế.
• Thà mất ghế chứ không mất của.
ooOoo
Nhưng đó là sai lầm khủng khiếp ngay từ điểm khởi đầu vì MẤT NƯỚC LÀ
MẤT TẤT CẢ -- từ "đảng" đến "ghế" đến "của", và vận tốc xâm lược sẽ
tăng vọt theo từng bước lũy thừa. Bài học này đã lập lại quá nhiều lần
trong lịch sử Việt Nam và tại nhiều nơi trên thế giới.
_____________________
[1] Hồ Chí Minh Tuyển Tập ấn bản Anh Ngữ, nhà xuất bản Thế Giới, Hà
Nội phát hành năm 1994, trang 195-208; (Ho Chi Minh Selected Writings
1920-1968, Thế Giới Publishers, Hanoi 1994).
[2] Sách đã đẫn, trang 230-247.