André Menras – Hồ Cương Quyết
Phạm Toàn dịch
Phạm Toàn dịch
Boxit Việt Nam
«Chẳng có cách gì giúp cho con nhím được nhẵn nhụi cả» (Aristophane)
Trải nghiệm sống hàng ngày thường xuyên xác nhận một chân lý có giá trị lịch sử bất biến: nước Việt Nam đang dấn sâu vào một tình trạng lệ thuộc bi thảm vào Trung Hoa. Rất nhiều người cho rằng đó là mối nguy hiểm nặng nề nhất hạng đang đè lên nước Việt Nam hôm nay. Đến độ có thể làm cho đất nước này ngạt thở. Họ đã phác họa thấy rất rõ và vô cùng chi tiết cảnh lệ thuộc này. Chẳng cần phải nói lại những điều đó ở đây. Tình trạng cúi đầu cam chịu này ngày càng gia tăng và sâu sắc thêm. Tình trạng lệ thuộc đó được chính thức hóa sau mỗi cuộc gặp cấp cao ở các thứ bậc của hai đảng Cộng sản, và sau mỗi lần họ đặt bút ký kết công khai hay bí mật.
Trải nghiệm sống hàng ngày thường xuyên xác nhận một chân lý có giá trị lịch sử bất biến: nước Việt Nam đang dấn sâu vào một tình trạng lệ thuộc bi thảm vào Trung Hoa. Rất nhiều người cho rằng đó là mối nguy hiểm nặng nề nhất hạng đang đè lên nước Việt Nam hôm nay. Đến độ có thể làm cho đất nước này ngạt thở. Họ đã phác họa thấy rất rõ và vô cùng chi tiết cảnh lệ thuộc này. Chẳng cần phải nói lại những điều đó ở đây. Tình trạng cúi đầu cam chịu này ngày càng gia tăng và sâu sắc thêm. Tình trạng lệ thuộc đó được chính thức hóa sau mỗi cuộc gặp cấp cao ở các thứ bậc của hai đảng Cộng sản, và sau mỗi lần họ đặt bút ký kết công khai hay bí mật.
Thất vọng thật đấy…, nhưng liệu cứ hy vọng thì có ngây thơ chăng?
Một công dân Việt Nam đã biểu đạt lại một cách sáng sủa tình hình khi
chất vấn Chủ tịch Trương Tấn Sang sau chuyến ông này mới đi Bắc Kinh
về: “… Chúng ta hợp tác với người Tàu. Người Tàu đã cai trị chúng ta
hàng trăm năm, hàng ngàn năm và luôn luôn tìm cách chèn ép chúng ta.
Ngày hôm nay người Tàu có mặt khắp nơi, từ rừng núi, đồng bằng, cao
nguyên, bờ biển… » (Nguyên văn trích dẫn bằng tiếng Việt của A.M. Hồ
Cương Quyết – ND).
Lẽ ra người chất vấn nên nói thêm: «Người Tàu không chỉ có mặt mà
trong nhiều trường hợp họ còn xua đuổi chúng ta, còn ngược đãi chúng ta
và ngăn cấm chúng ta kiếm miếng ăn ngay trên mảnh đất quê hương mình».
Đó chính là hoàn cảnh đặc biệt của hàng ngàn bà con ngư dân miền Trung
Việt Nam.
(Hình minh họa do André Menras - Hồ Cương Quyết chọn)
Nhưng ông Chủ tịch là con người của «Chân lý». Người công dân ở trong
Trương Tấn Sang biết khá rõ cái «thực tế khách quan» này (tiếng Việt
trong nguyên văn – ND). Người cộng sản ở trong Trương Tấn Sang có quá đủ
thời gian để nhìn thấy cái thực tế khách quan đó nảy nở phát triển suốt
dọc hành trình ông ngoi lên trong bộ máy của Đảng. Và điều đó vẫn chẳng
ngăn cản ông Trương Tấn Sang vị Chủ tịch đại diện cho nhân dân Việt Nam
cất công đi cúi đầu trước đám cận vệ Tàu mặt vênh lên, vênh cao lên như
những dùi cui bọn lính rằn ri Tàu lại đã một lần nữa giơ cao và đập
xuống đầu những ngư dân Lý Sơn và Bình Châu của Việt Nam đang đánh cá ở
Hoàng Sa. Ngài Chủ tịch hiểu rõ những vết thương này vì bà con ngư dân
đã nói với Ngài về những vết thương ấy, nói tại chỗ, nói ở ngay Lý Sơn,
nói trực tiếp, nói đúng lúc Ngài sắp du hành sang Tàu. Khi ấy, Ngài Chủ
tịch đã công khai nói cho họ yên lòng(1). Ngài biết rõ rằng trong lòng
những nạn nhân những vết thương ấy còn sâu xa đau đớn hơn nhiều so với
những vết thương nằm trên thân thể bên ngoài, những vết thương không chỉ
của ngư dân Việt Nam mà là những vết thương của toàn thể nhân dân Việt
Nam. Ngài Chủ tịch biết rằng những vết thương ấy rồi còn kéo dài và
toang hoác thêm trong khuôn khổ những mối quan hệ “đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện” (tiếng Việt trong nguyên văn – ND) giữa hai Đảng và
được đảng của bên Trung Hoa rất mong đợi. Ấy vậy nhưng rồi ông Chủ tịch
vẫn cúi đầu chấp nhận… Lúc ông bay đi Bắc Kinh, dù muốn dù không thì ông
cũng thủ sẵn trong bọc cái mà đồng chí Chủ tịch Tàu của ông hẳn sẽ đánh
giá cao hơn là một dấu hiệu tỏ lòng tôn kính, mà hơn cả thế, đó thực sự
là một món quà tỏ lòng quy thuận: có những công dân Việt Nam hãnh diện
và xứng danh Công Dân Việt đã bị trói chân và trói tay, đã lại mới bị
mất tự do vì đã «nói không hay về Trung Quốc» (tiếng Việt trong nguyên
văn - ND). Có những công dân rất trẻ trong số đó đã bị người ta cướp mất
những năm tháng đẹp đẽ nhất, và có những công dân khác bớt trẻ hơn
trong số đó đã bị người ta cướp mất sức khỏe đang tàn tạ trong cuộc
tuyệt thực kéo dài hoặc trong cảnh bệnh tật mà không được chăm sóc tử
tế…
Và rồi sau chuyến du hành hữu nghị, ông Chủ tịch đã đem về những gì
cho nhân dân Việt Nam? Những cam kết để cho phép những cuộc xâm nhập mới
của nền văn hóa Đại Hán, cho một sự «hợp tác» ở những chốn biên thùy,
chắc chắn không phải là hợp tác ở Biển Đông như ta đã thấy đối với những
chiến sĩ Biên Phòng tội nghiệp ở Thanh Hóa, Huế, Thừa Thiên, Đà Nẵng,
Quảng Ngãi… đang không ngừng xua đẩy cả bầy đàn tàu đánh cá Trung Quốc
cứ mỗi ngày lại tiến sát hơn vào bờ biển Việt Nam. Ông Chủ tịch cũng
mang về trong bọc của mình một chiếc «điện thoại nóng» «made in China»
(tiếng Anh trong nguyên văn – ND) để nói chuyện với bọn cá mập và gọi
chúng tới cấp cứu. Ông Chủ tịch cũng mang về một «đặc quyền đẹp đẽ» nữa
để được ngập sâu hơn nữa và dài lâu hơn nữa vào cảnh nợ nần. Ông chủ
tịch cũng mang về một dự án đẹp như trong mơ đôi bên cùng thăm dò trong
Vịnh Bắc Bộ, tay trong tay cùng với những chuyên gia trong nghệ thuật
cắt cáp … Đó là những món quà đẹp ơi là đẹp ông Chủ tịch đã mang về.
Không thấy một dòng nào, không hề có một từ nào về những điều cơ bản cốt
tử: những đòi hỏi về chủ quyền của nhân dân Việt Nam trên biển và trên
các đảo. Tất cả đều biến hết sau những rùm beng «dũng cảm và sáng suốt»
tại Shangri-La! Chúng ta hãy giữ lại đem dùng nội bộ cái bài diễn văn
làm cho ta tức điên người đó. Hãy để bài diễn văn đó cho người phát ngôn
Bộ Ngoại giao chẳng hạn. Tại cuộc họp báo ngày 11 tháng 7 ở Hà Nội,
viên Đại sứ Trung Quốc chỉ còn có thể vỗ tay hoan hộ: «chuyến thăm của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc» (tiếng Việt trong nguyên văn –
ND) Một «động lực» (tiếng Việt trong nguyên văn – ND) chết người cho
Việt Nam. Một sự thất vọng cay đắng. Một nỗi buồn to lớn… Thực sự chân
thành đấy. Thưa Ngài Chủ tịch nước, nếu ngay bây giờ Ngài không nói «Sự
thật» ra, cái sự thật Ngài mong muốn nói ra đến vô cùng, vâng, nếu ông
không nói ra thì ai sẽ nói?
Tìm đâu ra ánh sáng?
Kể từ bây giờ, biết tin vào ai nữa? Chắc chắn là không còn tin vào
những lời lẽ tốt đẹp của các nhà lãnh đạo nữa! Đó là những lời lẽ hình
như được nói ra ở những cuộc đấu giá tranh nhau nói hay cho chính quyền,
phần nhiều là nói có tính cách trình diễn chính trị hơn là phát biểu
một lập trường chính trị nghiêm túc có giá trị cam kết đáng tin cậy
trước toàn thể nhân dân. Những cam kết không được thực hiện đó, những
lời nói gió bay đó, những quay ngoắt 180 độ đó, chúng đem lại một hình
ảnh gì về các nhà lãnh đạo Việt Nam trước con mắt nhà quan sát nước
ngoài? Như Giáo sư Carl Thayer đã nói về một nhà lãnh đạo cấp cao khác
của Việt Nam: «… lời hứa duy nhất ông ta thực hiện, đó là việc đàn áp
các chủ trang blog». Ấy thế nhưng những tuyên bố của nhà lãnh đạo cấp
cao ấy đã được rõ ràng và trịnh trọng xác nhận … Đó là những lời tuyên
bố có tầm cỡ «chiến lược»!
Và thế là, với người công dân Việt Nam bình thường, biết tin cậy vào
ai bây giờ, biết trông đợi ánh sáng từ đâu bây giờ? Từ nước Tàu ư? Từ
Đảng Cộng sản Việt Nam ư? Từ Hoa Kỳ ư?
Đối với Bắc Kinh, đặt ra câu hỏi đã là hàm ý câu trả lời rồi. Rành
rành là những con diều hâu đang nắm quyền hành ở đó sẽ không bao giờ ký
vào một bản quy tắc hành xử COC hoặc một văn kiện bất kỳ nào khác khả dĩ
ép buộc họ phải tôn trọng luật pháp quốc tế và từ bỏ cái «đường lưỡi
bò» xâm lấn của họ. Nghĩ như thế là điên rồ hoặc là lòe bịp. Cuộc xâm
lăng Hán tộc đã bắt đầu và sẽ tiếp tục trừ phi có sự kháng cự mạnh mẽ
lại. Rõ ràng là nhà cầm quyền Trung Hoa đã đặt niềm tin chiến lược của
họ vào Đảng Cộng sản Việt Nam, chứ không đặt vào nhân dân Việt Nam. Họ e
sợ như sợ nạn dịch nếu xuất hiện nền dân chủ ở xứ «Yuè Nán» (phiên âm
tiếng Tàu trong nguyên văn – ND) vì họ biết rằng nền dân chủ đó mang
trong nó sự kháng cự, thậm chí là sự độc lập thực sự – mà Bắc Kinh coi
như một tội ác cao nhất.
Còn với Đảng Cộng sản Việt Nam thì sao? Họ đối xử với khát vọng dân chủ đó như thế nào?
Việc gia tăng giam cầm những người có vấn đề về chính trị, việc giở
trò thô bạo trong vụ lấy ý kiến toàn dân nhằm dân chủ hóa Hiến pháp và
tiến tới một xã hội dân sự, sự im lặng đáng khinh khi không trả lời đòi
hỏi trưng cầu dân ý minh bạch về vấn đề sở hữu đất đai, tất cả những
điều đó cho thấy rõ Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không chịu giải quyết
thách thức dân chủ hóa đất nước. Nhất hạng là không chịu giải quyết xóa
bỏ điều 4 trong Hiến pháp. Ngược lại là khác. Và chuyện biển Đông, vấn
đề lá phổi chiến lược cốt tử đối với Việt Nạm: nói chi những chuyện đó
nữa! Ngư dân liệu có được thực sự trợ giúp hay không? Hẳn nhiên là có sự
trợ giúp để tuyên truyền rộng khắp, nhưng đó là sự trợ giúp lố bịch nếu
đem so với những nhu cầu có tầm quan trọng chiến lược của chuyện này.
Chuyện trợ giúp chủ yếu được đem đặt lên đôi vai cấp tỉnh và sự trợ giúp
của vài doanh nhân. Liệu những người ngư dân có được che chở như được
tuyên bố nghiêm chỉnh bởi ông Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh?(2).
Thực vậy không? Ngay cả lá quốc kỳ Việt đang tung bay trên những thuyền
đánh cá cũng bị các «đối tác chiến lược» mặc đồ nhà binh rằn ri xé rách
và vứt xuống biển! Tại bất kỳ quốc gia nào trên thế giời, nếu những hành
động xâm lấn cố ý như vậy mà lặp đi lặp lại với mức độ cực kỳ trầm
trọng, và khi có những chứng cớ không chối cãi được như những chứng cứ
thu được trong những ngày vừa qua, thì như thế là đủ để đổ xuống đường
hàng trăm nghìn người biểu tình phẫn nộ. Ở Việt Nam thì ngược lại, những
ai có gan đi biểu tình liền bị bỏ vào nhà tù. «Đi thôi, đi đi thôi, có
chuyện vì mà xem! Ổn định chính trị!» (tiếng Việt trong nguyên văn –
ND).
Mức sống của đại đa số người lao động trên biển liệu có khuyến khích
họ «bám lấy ngư trường truyền thống»? Ta nghĩ gì đây về hàng trăm ngư
dân Thanh Hóa đã đi làm thuê cho chủ tàu đánh cá Trung Hoa để có đồng
lương tốt hơn?(3) Liệu họ có là những phần tử duy nhất đáng bị buộc tội?
Ai là kẻ phải chịu trách nhiệm về nỗi ô nhục thực sự của tình trạng
này? Đâu là những hứa hẹn phát triển kinh tế vùng ven biển được Phó thủ
tướng Vũ Văn Ninh tuyên bố rùm beng ở Lý Sơn hơn hai năm trước? Đâu là
những công trình điện khí hóa cho Lý Sơn được cũng cái ông lãnh đạo cấp
cao đó hứa hẹn? Có tin tức gì không về lời hứa hẹn xây dựng đội tàu đánh
cá có động cơ mạnh có vỏ sắt đủ sức chống lại những cú thúc bằng gót
sắt của bọn giả danh ngư dân Tàu và chống lại được những trận bão kinh
hồn? Tất cả những thông tin về các chủ đề nêu trên đều là thông tin ma.
Chắc chắn đó là những thông tin không đủ chất «chính trị» theo thị hiểu
của ông Nguyễn Thế Kỷ và các đồng chí của ông này tại Ban Tuyên giáo TW
để có thể loan báo cho đông đảo nhân dân.
Cần nhận rõ điều này: không phải cái Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay sẽ đưa đất nước ra khỏi cái hố lệ thuộc vào nước Tàu!
Vậy thì, hay là bám vào ông Obama chăng? Sẽ là không công bằng nếu cứ
nằm lỳ ở nơi đau lòng của Lịch sử và chẳng chịu giở cho nó sang trang.
Ta cần thừa nhận rằng Hoa Kỳ luôn luôn nói vô cùng hay về quyền Con
Người. Hoa Kỳ tiếp tục công việc đó một cách kiên quyết và có kiềm chế.
Tuy nhiên, tính kiên quyết đó đã được đổi thay tùy theo hoàn cảnh và tùy
theo tầm quan trọng của những hiệp nghị được ký kết hoặc dự phòng ký
kết với những chính quyền đang thiếu những quyền đó. Ta hãy nói thẳng
đi, xa hơn ngôn từ, trong những hành động trước sau như một, cái chú Sam
tử tế kia luôn luôn biết nương nhẹ tay với những kẻ vi phạm Nhân quyền –
nương tay với con dê vào vườn ăn trộm bắp cải. Đó là chuyện bình
thường: chú Sam tôn sùng sữa dê. Đó là quy tắc bất khả biến của «quyền
lợi quốc gia»: đối với các doanh nghiệp và các nhà băng Hoa Kỳ, thì
đô-la đã rồi mới đến quyền con người … Hoặc là không có gì hết. «Chúng
tôi đang kinh doanh: yêu cầu không quấy rầy!». Ta chớ nên mơ mộng: Chúa
cũng chẳng dùng business để cứu chúng ta một cách tự nhiên và vô tư đâu.
Niềm tin chiến lược duy nhất hợp lý
Không, nhân dân Việt Nam không hề thay đổi gì ở gốc rễ để đến nỗi
trông đợi vào những cuộc du hành «tái cấu tạo thăng bằng» của anh này
anh nọ tới thăm chốn nọ chốn kia. Mấy anh ấy sẽ chẳng giải quyết được
vấn đề cốt lõi, sống còn của đất nước: vì đất nước đang cần có một sự
dân chủ minh bạch và chính danh. Chỉ duy nhất dân chủ mới có thể giải
phóng những trái núi năng lượng và trí khôn đang bị vùi lấp ở trong vùng
sâu xa nhất của một dân tộc có một Lịch sử phi thường đang được thừa kế
bởi thế hệ trẻ Việt Nam bên trong bên ngoài đất nước. Chỉ duy nhất dân
chủ mới đủ sức làm lay động các phòng tuyến và đem lại cái mới. Duy nhất
cái ánh sáng dân chủ đó là có thể bảo vệ được di sản quốc gia và giải
thoát một cách tích cực những kho báu tự nhiên chứa đựng trong lòng đất
và ngoài biển nhằm hiện đại hóa lành mạnh và bền vững đất nước với những
chọn lựa cho đất nước.
Niềm tin chiến lược hợp lý cho nước Việt Nam hôm nay là niềm tin của
một nhân dân đã trưởng thành và kiêu hãnh, trong từng cá nhân và trong
toàn thể mọi người, sẵn sàng chiến đấu kháng cự, một cuộc chiến đấu mang
tính công dân, hòa bình và giải phóng. Những thành tựu sẽ tới khi dân
tộc này cùng tiến bước, và cùng đi với họ là vô số người bạn cũ và mới.
(1) «Chủ tịch nước khẳng định, Đảng, Nhà nước luôn
theo sát những hoạt động của bà con, làm tất cả để bà con yên tâm hoạt
động trên biển. (VOV)» (Tiếng Việt trích dẫn trong nguyên văn – ND).
(2) Vietnamnet 29-5-2013 «Nguyên tắc của ta là bảo
vệ ngư dân »… « Còn trên ngư trường, nếu có những vi phạm vào vùng biển
của ta thì các lực lượng chức năng sẽ có trách nhiệm bảo vệ» (Tiếng Việt
trích dẫn trong nguyên văn kể cả chữ in to và in đậm – ND).
(3) Người lao động 21 05 2013
A.M. H.C.Q.
Tác giả gửi bản gốc cho BVN