Ngô Nhân Dụng
Tuần trước, ông Bùi Tín, cựu phó chủ bút báo Nhân Dân (Hà Nội) hiện đang
tị nạn tại Pháp, viết một bài nhận xét về bản “Tuyên bố chung” giữa
Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, ký ngày 21 Tháng Sáu vừa qua tại Bắc
Kinh: “Không hề có một chữ nào (xác định) về Hoàng Sa, Trường Sa là đất
Việt Nam bị cưỡng chiếm bằng vũ lực. Không một lời yêu cầu nào đòi bảo
vệ tính mạng tài sản của ngư dân Việt Nam trong vùng biển quốc gia của
mình. Không một lời bác bỏ nào đối với cái ‘lưỡi bò’ phi pháp trên bản
đồ Trung Quốc. Chủ quyền quốc gia đã bị hoàn toàn từ bỏ.”
Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ cũng công bố một bản Nhận Ðịnh về cùng vấn đề
này, ngài viết: “Tuyên bố chung tại Bắc Kinh không hề có một dòng nào
xác định việc Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần đảo
Trường Sa của Việt Nam, hoặc hàng nghìn cây số trên đất dọc biên giới,
đặc biệt tại Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan, v.v. hay đòi hỏi Trung Quốc
hoàn trả biển và đất đã xâm chiếm.”
Những lời lên án trên khiến dư luận chú ý hơn đến văn kiện mà hai ông
Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình đã ký sau một chuyến công du ba ngày.
Trong thực tế, xưa nay người Việt ở trong và ngoài nước không mấy khi
chú ý đến các bản thông cáo chung của lãnh tụ hai đảng Cộng Sản, vì biết
trước rằng đó thường chỉ gồm những lời tuyên truyền trống rỗng.
Nhưng khi vị tăng thống thứ năm của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất phải viết rằng Hội Ðồng Lưỡng Viện của giáo hội “vô cùng quan ngại
về nội dung bản tuyên bố chung này” thì mọi người Việt Nam yêu nước phải
cùng chia sẻ nỗi lo lắng đó. Mặc dù bản tuyên bố chung có nhắc đến quan
hệ giữa hai đảng Cộng Sản, Trương Tấn Sang đã ký kết với tư cách là chủ
tịch nhà nước Việt Nam, nhân danh cả đất nước và dân tộc Việt Nam.
Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ phải cảnh cáo: “Với kẻ cướp đã vào chiếm đóng
một góc nhà rồi, ông chủ tịch nước vẫn ‘nhất trí’ với mưu kế của kẻ xâm
lăng...” Giống như nhà báo Bùi Tín viết: “Lũ giặc bành trướng được coi
là bạn bè thân thiết nhất, là đồng chí tin cậy nhất.” Ông lên án: “Chưa
bao giờ có sự đầu hàng nhanh chóng và nhục nhã đến như vậy.”
Ðầu hàng nhanh chóng như thế nào? Chỉ trong ba ngày, ông Trương Tấn Sang
đã ký tên vào một văn kiện dài bốn ngàn chữ, trong đó đề cập đến hàng
chục bản văn khác về việc hợp tác giữa hai nhà nước; và hai bên cũng ký
kết nhiều văn bản mới khác nữa. Chỉ trong ba ngày, họ đã xem lại để
“nhất trí hợp tác” thi hành rất nhiều văn kiện. Trong đó có, thí dụ,
“Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại Giao; Ðối thoại chiến lược quốc
phòng cấp thứ trưởng; Thỏa thuận hợp tác giáo dục giai đoạn 2011-2015;
Kế hoạch hành động thực hiện Hiệp Ðịnh Văn Hóa Việt-Trung giai đoạn
2013-2015; Kế hoạch công tác năm 2013 của ủy ban liên hợp biên giới trên
đất liền hai nước,” vân vân. Hai bên còn thảo luận và “nhất trí” về
việc “hoàn thành việc xây dựng trung tâm văn hóa của nước này ở nước
kia, tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực sản nghiệp văn hóa, nguồn
nhân lực. Hai bên nhất trí tổ chức Liên Hoan Thanh Niên Việt-Trung lần
thứ 2 vào nửa cuối năm nay;” lại “tăng cường hơn nữa hợp tác” giữa các
bảy tỉnh của Việt Nam và bốn tỉnh của Trung Quốc ở hai bên biên giới.
Bao gồm mọi lãnh vực, chỉ trong ba ngày đã ký kết xong.
Hãy nhìn vào danh sách các văn kiện mới được Trương Tấn Sang và Tập Cận
Bình cam kết với nhau, với các “thỏa thuận” cũ được duyệt xét, sửa đổi,
bất cứ người nào có suy nghĩ cũng phải tự hỏi làm sao họ “thỏa thuận”
với nhau nhanh chóng như vậy? Xin kể ra mấy bản văn mới ký: Một “Thỏa
thuận hợp tác biên phòng giữa Bộ Quốc Phòng hai nước Việt Nam-Trung
Quốc;” một “Chương trình hành động triển khai quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc;” một “Thỏa thuận giữa Bộ Nông
Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và Bộ Nông Nghiệp Trung Quốc về
việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt
động nghề cá trên biển.” Lại thêm, “Thỏa thuận giữa Bộ Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn Việt Nam và Tổng Cục Giám Sát Chất Lượng, Kiểm
Nghiệm, Kiểm dịch Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực kiểm nghiệm, kiểm
dịch động thực vật xuất nhập khẩu;” “Ðiều lệ công tác của ủy ban hợp
tác quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc;” “Bản ghi
nhớ giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ Trung Quốc về việc thành lập
trung tâm văn hóa tại hai nước;” “Bản ghi nhớ về kế hoạch hợp tác giai
đoạn 2013-2017 giữa liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và hội hữu
nghị đối ngoại nhân dân Trung Quốc;” “Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4 giữa
Tập Ðoàn Dầu Khí Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia
Trung Quốc liên quan tới vịnh Bắc bộ;” đặc biệt còn có một bản “Thỏa
thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
Việt Nam-Trung Quốc;” và nhiều thỏa hiệp hợp tác kinh tế khác. Tất cả
đều được ký kết trong chuyến thăm trong ba ngày.
Trong trường bang giao quốc tế, ít có hai quốc gia nào lại ký kết với
nhau, cùng một lúc, nhiều văn kiện “hợp tác” bao trùm đủ các lãnh vực
sinh hoạt của quốc dân như vậy. Hai nước Canada và Mỹ đã sống bên cạnh
nhau một cách hòa bình hơn hai thế kỷ, kinh tế, quốc phòng, ngoại giao
lãnh vực nào cũng hợp tác với nhau. Nhưng họ cũng chưa bao giờ ký kết
cùng một lúc nhiều thứ cam kết ràng buộc nhau, sau ba ngày thăm viếng
như vậy!
Phải nhấn mạnh đến các điều liên quan đến quân đội, vì quân đội nước nào
cũng là lực lượng bảo vệ quốc gia. Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang ký
kết, hứa hẹn với nhau sẽ “...làm sâu sắc thêm hợp tác giữa quân đội hai
nước... đi sâu trao đổi kinh nghiệm công tác đảng và chính trị trong
quân đội, tăng cường đào tạo cán bộ và giao lưu sĩ quan trẻ.” Chúng ta
phải chú ý tới việc “đào tạo cán bộ” trong quân đội, đặc biệt về “công
tác đảng” và “chính trị,” nghĩa là giáo dục, đào tạo não bộ của các sĩ
quan trong quân đội. Theo tinh thần những cam kết này, chúng ta có thể
thấy tái diễn cảnh “rèn cán chỉnh quân” mà Hồ Chí Minh đã đem vào Việt
Nam trong thời kháng chiến chống Pháp: Việc huấn luyện chính trị và nhồi
sọ lý thuyết Mác Lê Nin và tư tưởng Mao Trạch Ðông cho các sĩ quan trẻ
Việt Nam có thể sẽ được đặt dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Cộng;
hoặc đưa họ sang Trung Quốc thụ huấn các giáo điều tương tự! Chính trong
các đợt “rèn cán chỉnh quân” bắt đầu từ những năm 1950, sau khi Hồ Chí
Minh đưa tư tưởng Mao Trạch Ðông lên hàng lý thuyết chỉ đạo cho đảng Lao
Ðộng, mà rất nhiều sĩ quan trẻ tài ba đã bị nghi kỵ, bị hạ tầng công
tác, nhường chỗ cho thành phần bần cố nông được các cố vấn Trung Cộng
chấp thuận.
Tuy việc nhồi sọ các cán bộ trong quân đội là điều đáng lo ngại nhất,
nhưng bản Tuyên bố chung của Tập Cận Bình và Trương Tấn Sang còn mở rộng
chương trình “đồng hóa” về tư tưởng, về lý luận bao trùm hầu hết các
lãnh vực khác, không giới hạn trong quân đội. Họ ký kết như sau: “Hai
bên... nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác giữa hai đảng, thúc đẩy cơ chế
giao lưu hợp tác giữa hai ban đối ngoại và ban tuyên giáo, tuyên truyền
của hai đảng vận hành thuận lợi, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào
tạo cán bộ đảng và nhà nước. Hai bên nhất trí phối hợp chặt chẽ, cùng
nhau tổ chức tốt hội thảo lý luận hai đảng lần thứ 9, tăng cường hơn nữa
trao đổi kinh nghiệm về xây dựng đảng và quản lý đất nước... ở mỗi
nước.”
Ðọc những lời cam kết bao gồm đủ các lãnh vực từ quân sự đến “đào tạo
cán bộ đảng và nhà nước,” đến “Ðối ngoại, Tuyên giáo, Tuyên truyền” như
trên, chúng ta cảm thấy có một “âm mưu đồng hóa” của đảng Cộng Sản Trung
Quốc; mà họ đang được đảng Cộng Sản Việt Nam tích cực ủng hộ để thi
hành. Chưa kể tới những cam kết giữa hai đảng cộng sản khi nhắc tới các
tranh chấp đang xảy ra trên biển Ðông; sẽ bàn trong mục này vào dịp
khác.
Nhà báo Bùi Tín cũng nhận thấy: “Ðọc kỹ các văn bản, có cảm giác như
Việt Nam đã hội nhập vào trong lòng Trung Quốc. Tuy hai mà một. Hòa nhập
triệt để về mọi mặt, đặc biệt là về quốc phòng, về đối ngoại, về an
ninh, trị an xã hội, về đảng, nhà nước, về quân đội, về công tác đảng,
bảo vệ đảng, bảo vệ quân đội.”
Có thể nói, Cộng Sản Việt Nam đang tiếp tục đưa cả nước chui đầu vào
trong cái thòng lọng do Trung Cộng đưa ra. Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ
giải thích sự hợp tác mật thiết giữa hai đảng cộng sản hiện nay đã “xuất
phát từ ý thức nô lệ của ông Hồ Chí Minh khi ông làm bài thơ tuyên
truyền ‘Cứu Trung Quốc thị cứu tự kỷ’ (Cứu Trung Quốc là tự cứu mình)
đưa đăng trên báo Cộng Sản Tàu Cứu Vong Nhật Báo năm 1940 tại Quế Lâm.”
Chúng ta thông cảm với Hòa Thượng Quảng Ðộ khi ngài viết: “Người con
Phật không thể khoanh tay đứng ngó hay chỉ thắp hương cầu nguyện, mà
phải đem từng biệt nghiệp chuyển hóa cộng nghiệp ác hành.”
Hơn tám mươi triệu người Việt Nam cũng không thể chỉ “khoanh tay đứng ngó hay chỉ thắp hương cầu nguyện!”