Bertrand Russell (1950)
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất (Oct/2009)
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất (Oct/2009)
Loài người, từ thuở có các cộng đồng văn minh, đã đối đầu những
vấn đề thuộc hai loại khác nhau. Một bên là vấn đề làm sao chế ngự các
sức mạnh thiên nhiên, tìm thu kiến thức và kỹ xảo cần thiết để tạo dụng
cụ, vũ khí và đưa Tự Nhiên vào việc sản xuất các động vật và thực vật
hữu ích[2]. Vấn đề này, trong thế giới tân tiến, có khoa học và kỹ thuật
giải quyết, và kinh nghiệm cho thấy để giải quyết nó cho thích đáng,
cần phải huấn luyện một số đông chuyên viên các ngành hạn hẹp.
Nhưng còn vấn đề loại thứ nhì, không trắng đen tách biệt bằng, và bởi
vài nhầm lẫn nên đã xem là không quan trọng. Tôi muốn nói đến vấn đề -
chúng ta điều động các sức mạnh trong thiên nhiên - thế nào cho tốt
nhất. Nó gồm những vấn đề nóng bỏng như dân chủ hay độc tài, chủ nghĩa
tư bản hay chủ nghĩa xã hội, chính quyền quốc tế hay không chính quyền
quốc tế, tự do luận giải hay độc đoán giáo điều. Về những vấn đề như
thế, phòng thí nghiệm không thể cho ra những hướng dẫn quyết định. Thứ
kiến thức có ích nhất để giải quyết các vấn đề như thế là một nghiên cứu
rộng rãi sinh hoạt loài người, trong quá khứ cũng như trong hiện tại,
và một nhận thức sâu sắc những nguyên nhân của bất hạnh hoặc của mãn
nguyện như chúng xuất hiện trong lịch sử. Rồi sẽ tìm thấy rằng có thêm
kỹ năng đã không, từ chính nó, bảo đảm bất kỳ có thêm sung sướng hay
phúc lợi nào cho loài người. Khi con người bắt đầu biết vỡ đất trồng hoa
màu, đã dùng kiến thức của họ, thiết lập một tín ngưỡng ác độc giết
người tế thần. Đầu tiên thuần được giống ngựa, những người này đã cỡi
chúng đi cướp phá và bắt rất đông đảo dân cư hiền hòa làm nô lệ. Lúc
cuộc cách mạng kỹ nghệ mới khai sinh, người ta tìm được cách chế biến
bông vải thành sản phẩm, kết quả thật hãi hùng: vận động bãi bỏ chế độ
nô lệ của Jefferson[3] ở Bắc Mỹ, ở điểm sắp thành công, bị hủy tắt ngay;
nạn bắt trẻ con lao động ở nước Anh phát triển đến mức ác độc kinh sợ;
và chủ nghĩa thực dân khốc hại ở châu Phi được khích động bởi hy vọng có
thể xui người da đen mặc quần áo bông vải. Trong thời chúng ta, sự kết
hợp giữa thần khoa học và tài kỹ thuật đã sản xuất ra bom nguyên tử,
nhưng sau khi sản xuất nó xong chúng ta kinh hoảng, và không biết làm gì
với nó. Những trường hợp như thế, trải khắp các thời kỳ lịch sử khác
nhau, cho thấy cần cái gì đó khác hơn là tài khéo, cái gì đó có lẽ có
thể được gọi là “khôn ngoan”. Đây là một thứ phải học lấy cho được, nếu
nó có thể học được, bằng những phương cách của các môn học khác hơn là
những phương cách học tập dành cho khoa học kỹ thuật. Và - hơn bao giờ
hết - nó là thứ cần bây giờ hơn là trong quá khứ, vì sự tiến bộ nhanh
chóng của kỹ thuật làm thói quen suy nghĩ và hành động cổ điển càng bất
xứng hợp hơn nhiều so với thời trước.
Triết học – “Philosophy” - có nghĩa là “yêu thích sự khôn ngoan”, và
triết học[4] trong nghĩa này mới là thứ mà con người phải thu tập; nếu
những năng lực mới, do các nhà kỹ thuật khám phá và chuyển qua cho những
người bình thường xử dụng, không chôn vùi loài người vào những địa chấn
kinh hoàng. Nhưng thứ triết học nên là phần của giáo dục phổ thông,
không giống như triết học của những người chuyên triết học. Không phải
chỉ riêng triết học, nhưng trong tất cả các ngành học hàn lâm, có sự
phân biệt giữa những gì có giá trị văn hóa và những gì chỉ thuộc về theo
đuổi chuyên môn. Các sử gia có thể tranh luận về những gì đã xảy ra cho
cuộc viễn chinh của Sennacherib[5] năm 698 BC, nhưng những ai không
phải là sử gia không cần phải biết sự khác biệt giữa cuộc viễn chinh ấy
với các cuộc viễn chinh của ông ba năm trước đó. Các nhà chuyên môn học
Hylạp có thể thảo luận hữu ích về một kịch bản hồ nghi của Aeschylus[6],
nhưng những nội dung như thế không dành cho người, dù có đời sống bận
rộn, muốn có được ít nhiều hiểu biết về các thành tựu của Hylạp. Tương
tự, những người dành trọn đời cho triết học phải suy nghĩ những vấn đề
mà công chúng với học vấn phổ thông có quyền bỏ qua, thí dụ như sự khác
biệt trong lý thuyết về phổ quát của Aquinas[7] và Duns Scotus [8], hay
những tính chất ngôn ngữ phải có, nếu ngôn ngữ ấy có thể nói – nếu được -
những điều về chính nó mà không rơi vào vô nghĩa. Những câu hỏi như thế
thuộc về những mặt chuyên biệt kỹ thuật của triết học, và thảo luận về
chúng không thể đóng vào phần cho văn hóa tổng quát.
Giáo dục nhà trường nên nhằm đến sự có thêm những gì có giá trị văn
hóa từ các ngành sử học, văn học và triết học - nhiều đến mức thời gian
cho phép - như một sửa chữa tác động ngược với sự chuyên khoa do kiến
thức gia tăng nên không sao tránh được. Nên làm thành dễ dàng, để một
người trẻ không biết tiếng Hylạp, có thể qua dịch thuật mà có được và
hiểu biết, dù không đầy đủ, về những gì những người Hylạp đã thành tựu
được. Thay vì học hết ông vua Anh này qua ông vua Anh khác, trong nhà
trường, nên có vài cố gắng đưa ra một tổng quan lịch sử thế giới, đem
những vấn đề ở thời chúng ta vào tương quan với những gì các nhà tu nước
Egypt, các hoàng đế xứ Babylon và những nhà cải cách thành Athen, cũng
như với tất cả các hy vọng và tuyệt vọng trong các thế kỷ đó. Nhưng từ
cùng quan điểm như thế, tôi muốn viết chỉ về môn triết học.
Triết học có, từ những ngày sớm nhất của nó, hai đối tượng được tin
là có tương hệ chặt chẽ. Một mặt, nó vươn đến một sự hiểu biết lý thuyết
về cấu trúc của thế giới, mặt khác, nó cố gắng khám phá và gieo trồng
cái cách sống tốt đẹp nhất có thể có được. Từ Heraclitus đến Hegel, hay
ngay cả đến Marx, nó không ngừng giữ cả hai mục đích, nó không hoàn toàn
là thuần lý thuyết cũng chẳng hoàn toàn thuần thực tiễn, nhưng tìm một
lý thuyết về vũ trụ, trên ấy đặt nền một đạo đức thực tiễn.
Thế nên, triết học đã liên hệ chặt chẽ với khoa học ở một cánh, và
với tôn giáo ở cánh kia. Trước tiên, chúng ta hãy thử xem xét mối liên
hệ với khoa học. Cho đến thế kỷ XVIII, khoa học vẫn được gộp chung vào
trong cái thường quen gọi là “triết học”, nhưng sau đó trở đi, từ “triết
học” đã giới hạn, về mặt lý thuyết của nó, vào những gì có tính suy
đoán và tổng quát hơn trong các đề tài khoa học giải quyết. Đã hay nói
rằng triết học không tiến bộ, thay đổi, nhưng phần lớn chỉ là chuyện hời
hợt nói miệng: liền mỗi khi tìm được cách đi đến kiến thức chuẩn xác
cho một vài câu hỏi đặt ra từ cổ thời, kiến thức mới tìm được kể là
thuộc về khoa học, và triết học bị tước mất công trạng. Từ thời Hylạp
xuống mãi tận thời Newton, lý thuyết về các hành tinh thuộc về triết
học, vì nó không chắc chắn và phỏng đoán, nhưng Newton đem môn học ra
khỏi lĩnh vực giả thuyết sao cũng được, làm nó thành một môn học đòi hỏi
một thứ khả năng khác trước, khi nó còn nặng gánh với các nghi ngờ nền
tảng. Anaximander, thế kỷ VI trước công nguyên, đã đưa ra một thuyết
tiến hóa, và chủ trì rằng loài người bắt nguồn từ giống cá. Đó là triết
học vì nó là một ức đoán không có chứng cớ tỉ mỉ nào chống đỡ, nhưng
thuyết tiến hóa Darwin là khoa học, vì nó dựa trên các dạng sinh vật
tiếp nối nhau tìm thấy trong hóa thạch, và trên sự phân bố động, thực
vật ở nhiều vùng địa cầu. Một người có thể nói đùa - có phần nào sự
thật; “Khoa học là những gì chúng ta biết, và triết học là những gì
chúng ta không biết”. Nhưng cũng nên thêm rằng ức đoán triết học – về
những gì chúng ta chưa biết - đã chứng tỏ tự nó là một chuẩn bị giá trị
dẫn đến kiến thức khoa học chính xác. Những phỏng đoán của nhóm
Pythagoreans[9] về thiên văn, của Anaximander[10] và Empedocles[11] về
sinh vật tiến hóa và của Democritus về cấu trúc nguyên tử của vật chất,
đã đem đến cho các nhà khoa học các thời sau những giả thuyết, mà nếu
không từ các triết gia, có thể sẽ chẳng bao giờ nảy ra trong đầu họ
được. Chúng ta có thể nói rằng, về mặt lý thuyết, triết học gồm, ít nhất
có phần, vào việc dựng khung những giả thuyết tổng quát rộng lớn mà
khoa học chưa sẵn tư thế thử nghiệm, nhưng khi trở thành có thể xét
nghiệm được, các giả thuyết này, nếu chứng nghiệm, thành một phần của
khoa học, và thôi không còn kể là thuộc triết học nữa.
Sự hữu dụng của triết học, về mặt lý thuyết, không phải chỉ thu vào
các ức đoán mà chúng ta hy vọng rồi với một thời gian vừa phải, sẽ được
khoa học xác nhận hay phủ nhận. Có những người rất thán phục những gì
khoa học biết được mà quên những gì khoa học không biết. Có những người
khác lại quan tâm quá đến những gì nó không biết hơn là những gì nó
biết, đến mức thu cho nhỏ đi những thành tựu của khoa học. Những người
nghĩ rằng khoa học là tất cả, trở nên tự mãn và tự phụ, và dèm pha tất
cả các quan tâm về những vấn đề còn thiếu qui định chuẩn xác thiết yếu
cho giải quyết khoa học. Trong nội dung thực tiễn, họ nghiêng về suy
nghĩ rằng kỹ xảo có thể thế chỗ khôn ngoan, và giết nhau bằng những
phương tiện mới nhất mới là “tiến bộ” hơn, và do đó hay hơn, là giữ hai
bên cùng chung sống bằng các phương cách “lỗi thời”. Mặt khác, những
người dè bỉu khoa học, lại đi trở ngược, như định luật, về những mê tín
cổ lỗ chết người và từ chối không thừa nhận có sự tăng trưởng lớn lao
hạnh phúc con người mà kỹ thuật khoa học, nếu xử dụng khôn ngoan, có thể
làm thành được. Cả hai thái độ này đều đáng trách, và chính triết học
mới chỉ ra thái độ đúng đắn, bằng cách, một khi làm sáng tỏ cả phạm vi
lẫn giới hạn của kiến thức khoa học.
Hãy ngắn ngủi tạm đặt qua một bên, tất cả những câu hỏi có dính dáng
với đạo đức hay với các nguyên tắc giá trị, có một số các câu hỏi thuần
túy lý thuyết, cứ trở đi trở lại không thôi và được quan tâm mạnh mẽ, mà
với bất cứ giá nào hiện nay, khoa học không trả lời được. Chúng ta có
tồn tại, dù với nghĩa nào đi nữa, sau cái chết không? và nếu có, chúng
ta tồn tại một thời gian thôi hay mãi mãi? Tinh thần chi phối vật chất
hay vật chất hoàn toàn chi phối tinh thần, hay có lẽ, mỗi thứ có giữ một
mức độc lập nào đó? Vũ trụ có mục đích gì không? Hay tất yếu mù lòa lèo
lái nó? Hay là nó là một hỗn mang (chaos) và rối bòng bong, trong đó,
những luật tự nhiên mà chúng ta nghĩ là chúng ta tìm ra, thực là những
huyễn tưởng tô vẽ từ chính lòng chúng ta yêu trật tự? Nếu vũ trụ có lớp
có lang, trong ấy sự sống đóng vai quan trọng hơn là như các nhà vũ trụ
học dẫn giải cho chúng ta, hay sự nhấn mạnh của chúng ta về sự sống
chẳng qua chỉ là sự tự thổi phồng hẹp hòi, thiển cận? Tôi không biết lời
đáp những câu hỏi này, và tôi không tin có bất kỳ ai biết được, nhưng
nếu quên mất những câu hỏi đó, hay nếu chấp nhận thật chắc chắn những
lời đáp mà không có đầy đủ chứng cớ, tôi nghĩ đời người sẽ nghèo nàn đi.
Nuôi sống sự quan tâm vào những câu hỏi như thế, và nghiên cứu chi ly
các lời đáp đưa ra, là một trong những chức năng của triết học.
Những ai nồng nhiệt với lời lãi nhanh chóng và với kết toán tài chính
đâu ra đó, giữa nỗ lực và thưởng lệ, có thể cảm thấy mất kiên nhẫn về
một môn học mà nó không thể, trong tình trạng hiểu biết hiện nay của
chúng ta, đi đến được sự chắc chắn, và khuyến khích sự hoạt động, có thể
nghĩ là phí thì giờ về những suy tưởng không đi đến đâu cho những vấn
đề không có giải đáp. Quan điểm này, tôi không thể tán thành dù ở mức
nào. Ít nhiều một thứ triết học gi đó, là cần thiế cho tất cả (mọi
người), chỉ trừ ra thứ vô nghĩa nhất, và trong trường hợp không kiến
thức này, chắc chắn nó là một triết lý ngớ ngẩn. Kết quả của nó là loài
người trở nên phân chia vào thành các nhóm đối lập những cuồng tín, mỗi
nhóm quyết chắc như đinh đóng cột cái mình mang chính thực là chân lý
linh thiêng, trong khi phía bên kia là sai lầm đáng chết! Những người
Arian[12] và người Catô, Những người viễn chinh thánh chiến (Crusaders)
và những người Muslim, những người Tin lành (Protestants) và những đệ tử
của các giáo hoàng Catô[13], những người cộng sản và những người phát
xít, tất cả đã làm đầy những phần lớn 1600 năm qua với những xung đột vô
ích, trong khi chỉ với một chút triết lý là đã có thể dạy cho cả hai
bên rằng tất cả các tranh chấp đó, chẳng bên nào có một tí lý do chính
đáng nào để tin rằng mình có lẽ phải. Giáo điều chủ nghĩa là thù địch
của hòa bình và rào cản không vượt được của dân chủ. Trong thời đại hiện
nay, ít nhất cũng như trong các thời trước, nó là chướng ngại tinh thần
to lớn nhất cho hạnh phúc nhân loại.
Đòi hỏi sự chắc chắn là một điều tự nhiên của con người, nhưng tuy
thế lại là một tật xấu trí thức. Nếu bạn dắt con trẻ đi picnic vào một
ngày thời tiết không chắc chắn, chúng sẽ khăng khăng đòi trả lời cứng
chắc - là trời sẽ mưa hay nắng, và chúng sẽ thật thất vọng nếu trả lời
là bạn không thể chắc. Một thứ đảm bảo như thế cũng đòi hỏi, vào lúc
cuối đời, ở những ai nhận vai trò đưa dân chúng vào Đất Hứa. “Bỏ sạch
vốn liếng buôn lời bán lãi đi và những kẻ sống xót sẽ vui hưởng thiên
đàng vĩnh viến[14]“. “Giết sạch bọn Jews đi và mọi người sẽ thành thánh
thiện”. “Giết người Croats và để người Serb trị vì”. Đó là mẫu những
khẩu hiệu đã được chấp nhận thật phổ thông rộng rãi trong thời chúng ta.
Dẫu chỉ với một tí triết học đã có thể làm chuyện chấp nhận sự khát máu
vô nghĩa như thế không thể nào thành được. Nhưng chừng nào con người
không được huấn luyện giữ phán đoán lại trong trường hợp thiếu chứng cớ,
họ sẽ bị các đấng tiên tri, các giáo chủ cực kỳ kiêu ngạo dẫn dụ lạc
đường, và có lẽ đúng là những lãnh tụ của họ nếu không cuồng tín xuẩn
động thì phải là gian xảo bịp bợm. Chịu đựng sự bất định thì khó khăn,
nhưng cũng là thế với các phẩm hạnh khác. Vì học tập mỗi tính tốt nào
cũng đòi hỏi một kỷ luật tương hợp, và để học tính kìm giữ phán đoán,
triết học là thứ kỷ luật thượng hạng.
Nhưng nếu triết học có phụng sự một mục tiêu tích cực nào, nó phải
không chỉ dạy có sự hoài nghi mà thôi, vì, trong khi kẻ giáo điều thì
tai hại, người hoài nghi thì vô dụng. Cả hai chủ nghĩa giáo điều và hoài
nghi, theo một cách, đều là những triết lý độc đoán: môt cái nhất quyết
rằng biết, cái kia nhất quyết không biết. Cái mà triết học nên xua đi
là sự tin chắc, về kiến thức hay về ngu dốt. Kiến thức không chuẩn xác
đến mức như ở khái niệm đông đảo vẫn nghĩ. Thay vì nói “Tôi biết điều
này”, chúng ta nên nói “Tôi biết ít nhiều vài điều ít nhiều giống như
vầy”. Đúng là qui định này thì không mảy may cần thiết như khi nói về
bảng nhân (cửu chương), nhưng kiến thức trong công việc thực tiễn không
có sự đoan chắc hay chính xác của bảng nhân. Giả sử như khi tôi nói “dân
chủ là điều tốt”; tôi phải thú nhận, trước hết, tôi ít chắc chắn về
điều này hơn là - hai lần hai thành bốn, và thứ nhì, “dân chủ” là một từ
có hơi chút mơ hồ mà tôi không thể định nghĩa cho chính xác. Chúng phải
nên nói, như vầy, “Tôi khá chắc chắn nó là một điều tốt nếu một chính
phủ có cái gì đó mang những đặc điểm thấy chung trong chính phủ Anh và
trong hiến pháp nước Mỹ”, hay điều gì đó tương tự cùng loại. Và một
trong những mục đích của giáo dục là nên làm những phát biểu như thế hữu
hiệu hơn trên diễn đàn, khác thứ khẩu hiệu chính trị thông thường.
Do có nhận thức rằng - tất cả các kiến thức của chúng ta, trong một
mức nhiều hay ít, bất định và không rõ rệt – vẫn chưa đủ, nên đồng thời -
cần thiết học hành động trên cái giả thuyết tốt nhất dù không cứng chết
tin chặt vào nó. Trở lại với chuyện đi chơi picnic, dẫu khi bạn nhận
trời có thể mưa chăng, lúc bắt đầu nếu bạn nghĩ có thể tốt trời, nhưng
bạn cho phép trường hợp nghịch lại có thể xảy ra, bằng cách đem áo mưa
đi theo. Nếu bạn là người giáo điều, bạn sẽ bỏ áo mưa ở nhà. Cùng nguyên
tắc như thế áp dụng cho các vấn đề quan trọng hơn. Người ta có thể nói
rộng ra rằng: tất cả những gì đáng được gọi là kiến thức có thể xếp đặt
theo một trật tự trên dưới, có thứ bậc là mức độ chắc chắn, với số học
và các sự kiện của tri giác ở trên cao nhất. Cái điều hai nhân hai thành
bốn và tôi đang ngồi viết trong phòng tôi, là những phát biểu mà nếu có
nghi ngờ nghiêm trọng nào về phần tôi thì phải là chuyện tâm thần. Tôi
cũng gần chắc chắn như thế là hôm qua là một ngày đẹp trời, nhưng không
hẳn chắc bằng, vì trí nhớ nhiều khi đóng vai lừa dối. Ký ức càng xưa
càng nên ngờ, nhất là nếu có lý do tình cảm manh mẽ muốn chúng ta nhớ
sai đi, như là, lấy thí dụ, khiến vua George IV “nhớ” mình có mặt trong
trận chiến Waterloo[15]. Những luật khoa học có thể gần như chắc chắn,
hay chỉ có lẽ hơi đúng, tùy theo thể trạng của chứng cớ. Khi bạn hành
động dựa vào một giả định mà bạn biết là không chắc đúng, hành động của
bạn phải nên sao vẫn sẽ không có hậu quả tác hại xảy ra nếu như giả định
của bạn ra là sai lầm. Trong trường hợp chuyến đi chơi picnic, bạn có
thể liều cho ướt át nếu mọi người tham dự đều mạnh mẽ, nhưng không nên
để xảy ra nếu chỉ một người trong họ mảnh dẻ có thể bị nhiễm chứng viêm
phổi. Hay giả thử bạn gặp một người theo giáo phái Muggletonian[16], bạn
đúng đấy, nếu xoay ra bàn cãi với họ, vì cũng chẳng hại gì, cùng lắm là
sẽ chỉ chết tiền bia, nếu như vị Muggleton giáo chủ đó thực sự là một
vĩ nhân đúng như các tín đồ của ông vẫn giả dụ tin tưởng, nhưng bạn sẽ
không đúng nếu lôi anh ta ra đốt sống, vì cái ác độc đốt sống người là
chắc chắn, chắc chắn hơn là bất cứ mệnh đề thần lý tôn giáo nào. Dĩ
nhiên, nếu những người Muggletonian đã quá đông đảo và quá cuồng tín đến
nỗi hoặc là bạn hay là họ phải bị giết, vấn đề sẽ càng thêm lớn mạnh
khó khăn, nhưng nguyên tắc tổng quát vẫn phải giữ như thế, là một giả
thuyết còn nghi ngờ[17] không thể lấy để biện hộ, bào chữa cho một hành
động ác độc là đúng, trừ khi một sự ác độc ngang bằng như thế cũng chắc
chắn có như thế ở phía giả thuyết đối nghịch.
Triết học, như chúng ta đã nói, có cả hai mục đích lý thuyết và thực tiễn. Bây giờ, đến lúc xem xét cái thứ nhì.
Trong hầu hết các triết gia cổ thời, có sự nối kết chặt chẽ giữa một
quan điểm về vũ trụ và một học thuyết về cách sống tốt đẹp nhất[18].
Trong họ, có số thành lập các hội tương ái có phần giống giống như các
dòng tu các thời sau. Socrates và Plato làm các nhà sophists[19] kinh
hoảng vì cả hai không có các mục tiêu tín ngưỡng. Nếu triết học có đóng
vai nghiêm trọng trong đời sống những người không chuyên học triết, nó
phải không ngưng cổ vũ cho một lối sống nào đó. Làm như thế, nó tìm cách
thực hiện một vài điều mà tôn giáo đã làm nhưng với những khác biệt rõ
rệt. Sự khác biệt lớn nhất là nó không kêu gọi đến uy quyền, dù đến từ
truyền thống hay từ một quyển sách thiêng liêng[20] . Khác biệt quan
trọng thứ hai là một triết gia không nên tìm cách thành lập một giáo
hội; Auguste Comte[21] đã thử, và đã thất bại, đáng cho ông lắm. Thứ ba
là nên nhấn mạnh nhiều vào các phẩm hạnh trí thức hơn là thói thường vẫn
có từ sau văn minh Hellenic[22] suy tàn.
Có một sự khác biệt quan trọng giữa đạo đức giảng dạy của các triết
gia cổ thời và những gì thích hợp với thời của chúng ta. Các triết gia
cổ thời đưa ra mẫu chính nhân nhàn nhã, mẫu người này có thể sống theo
những gì họ xem là tốt đẹp với họ, và họ còn có thể, nếu họ chọn thế,
lập một thành-quốc độc lập, có những luật lệ đặt ra theo tinh thần chủ
thuyết của vị thày khai môn. Đại đa số các người học thức ngày nay không
có thứ tự do như thế; họ phải kiếm sống trong khuôn khổ đã có sẵn của
xã hội, và họ không thể làm được những thay đổi quan trọng trong sinh
hoạt của chính họ, trừ khi họ họ thực hiện thành công các thay đổi quan
trọng trong chính trị và tổ chức kinh tế trước đã. Hậu quả là những xác
quyết đạo đức của anh ta phải bày tỏ, nhiều hơn qua phần thỉnh cầu chính
trị, và kém trong phần ứng xử cá nhân, so với trường hợp cổ thời. Và
một khái niệm về một cách sống tốt đẹp phải là của xã hội hơn là của cá
nhân. Ngay giữa các triết gia cổ thời, Plato đã nhận thấy thật rõ như
thế trong Republic, nhưng phần nhiều đều có một quan niệm rất cá nhân về
những mục đích nhân sinh.
Với những điều khoản như thế, chúng ta hãy xem triết học có gì để nói về chủ đề của khoa đạo đức.
Bắt đầu với các đức hạnh trí thức: Sự đeo đuổi của triết học dựng
trên niềm tin kiến thức thì tốt đẹp, ngay cả khi cái biết có mang lại
thương tổn. Một người thấm nhuần tinh thần triết học, dù là triết gia
chuyên nghiệp hay không, sẽ muốn làm cho các tin tưởng của ông ta thành
sự thật nhiều chừng nào tốt chừng ấy, và sẽ, thích biết được sai lầm và
ghét cái sai lầm cùng mức độ ngang nhau. Nguyên tắc này có phạm vi rộng
hơn là xem ra lúc thoạt nhìn đầu tiên. Những tin tưởng của chúng ta khởi
dựng từ rất nhiều nguyên nhân khác biệt: từ những gì chúng ta được cha
mẹ, thày cô giáo bảo cho biết thời nhỏ tuổi, từ những gì các tổ chức uy
quyền bảo chúng ta để chúng ta làm theo ý họ muốn, từ những gì hoặc làm
tăng hay giảm những sợ hãi của chúng ta, từ những gì chăm sóc lòng tự
trọng của chúng ta, và vân vân tương tự. Bất kỳ một trong các nguyên
nhân này có thể đưa chúng ta đến tin tưởng chân thực, nhưng dẫn chúng ta
đi ngược hướng hay có cơ xảy ra hơn. Điềm tĩnh trí thức, do đó, sẽ đưa
chúng ta đến xem xét kỹ lưỡng các tin tưởng của chúng ta thật cẩn thận,
với một cái nhìn khám phá xem trong chúng - cái nào có lý do gì để tin
tưởng là đúng. Nếu chúng ta thật khôn ngoan, chúng ta sẽ áp dụng thứ phê
phán mạnh như cường toan (làm tan chảy) đặc biệt với những tin tưởng mà
chúng ta đau lòng nhất khi phải ngờ vực, và những tin tưởng có cơ dễ
nhất kéo chúng ta vào xung đột bạo lực với những người tin tưởng đối
lập, nhưng như chúng ta, đều cùng không có nền tảng. Nếu thái độ này
thành phổ thông, cái lợi từ sự giảm bớt chua chát cãi vã thật khôn
lường.
Còn có một đức hạnh trí thức khác nữa, nó có từ tính chung rộng, hay
tính không thiên vị. Tôi đề nghị thực tập như sau: Khi nào, trong một
câu văn diễn bày quan điểm chính trị, có những từ kích động tình cảm
mạnh mẽ khác nhau nhưng tùy cá nhân khác biệt, hãy thay chúng bằng các
ký hiệu, A, B, C,... vân vân và quên đi ý nghĩa riêng của những ký hiệu.
Thí dụ A là nước Anh, B là nước Đức, và C là nước Nga. Chừng nào bạn
còn nhớ các chữ cái này mang nghĩa gì, hầu hết những gì bạn sẽ tin, sẽ
tùy thuộc vào bạn là người Anh, là Đức, hay là Nga, là những điều không
liên quan gì với lôgích. Khi nào, trong môn algebra sơ đẳng, bạn giải
bài toán có A, B và C leo núi, bạn không có bận tâm tình cảm nào về kẻ
leo núi, và sẽ gắng hết sức giải bài toán thật đúng đắn không thiên vị.
Nhưng nếu bạn nghĩ A là chính bạn, B là đối thủ bạn ghét và C là thày
giáo ra bài, tính toán của bạn rồi ra có thể sai lệch, bạn chắc có thể
giải A đến trước nhất và C sau chót. Khi suy nghĩ các vấn đề chính trị
ắt sẽ xảy ra tình cảm thiên vị loại này, và chỉ có quan tâm và thực hành
mới có thể giúp bạn suy nghĩ khách quan như khi giải toán algebra.
Suy nghĩ với các từ trừu tượng dĩ nhiên không phải là cách duy nhất
nói chung để đạt đến đạo đức; cũng có thể đạt đến như thế, và có lẽ còn
hay hơn, nếu bạn có thể cảm được những xúc động chung. Nhưng với đa số,
điều này là khó khăn. Nếu bạn đói, bạn sẽ bương chải mạnh lắm, nếu cần
thiết, để tìm thức ăn; nếu con cái bạn đói, bạn có thể cảm thấy một sự
cấp bách còn lớn lao gấp bội. Nếu có bạn bè đang thiếu cái ăn, bạn chắc
sẽ tận lực, hết sức giúp bạn mình cho qua cơn hoạn nạn. Nhưng nếu bạn
nghe nói có một vài triệu người Ấn hay Tàu đang trong nguy hiểm chết
người vì nạn thiếu ăn, vấn đề thật quá rộng lớn và quá xa xôi, trừ khi
bạn có một trách nhiệm chính quyền nào đó, bạn sẽ sớm quên hết tất cả.
Dẫu gì đi nữa, nếu bạn có khả năng xúc cảm để cảm thấy bén nhậy về một
mối hiểm nghèo ở xa, bạn có thể đạt đến đạo đức phổ quát bằng cảm xúc.
Nhưng nếu bạn không có cái thiên bẩm họa hiếm này, tập quán xem xét các
vấn đề thực tiễn một cách vừa trừu tượng lẫn vừa cụ thể là sự thay thế
tốt nhất.
Mối quan hệ hỗ tương giữa logich và xúc cảm trong đạo đức nói chung
là một chủ đề đặc sắc. “Ngươi hãy yêu láng giềng như chính ngươi” nhắm
vào xúc động chung; “Các phát biểu đạo đức không nên có chứa tên riêng”
nhắm vào logich chung. Hai châm ngôn nghe rất khác nhau, nhưng sau khi
xem xét, sẽ thấy chúng chẳng khác nhau mấy trong ý nghĩa thực tiễn.
Người có lòng nhân sẽ thích hình thức truyền thống kể trước, người nặng
trí logich sẽ thích lối sau. Tôi thật chẳng biết trong hai, ai là số ít.
Dù cách nói nào cũng thế, nếu được các nhà lãnh đạo chấp nhận và dân
chúng của họ tán thành, sẽ nhanh chóng đưa đến thời hoàng kim. Jews và
Arập sẽ cùng nói với nhau: “Chúng ta hãy xem làm cách nào tạo một lượng
thực phẩm nhiều nhất cho cả hai bên, mà không phải bận tâm vào sự tìm
hiểu chi tiết phân chia ra sao giữa chúng ta”. Hiển nhiên là mỗi nhóm sẽ
thu được thật nhiều những gì để tạo hạnh phúc cho cả hai hơn là chẳng
ai hiện nay có được. Cũng đúng như thế cho người theo đạo Hindu và đạo
Moslem. Những người cộng sản Tàu và những người theo Chiang Kai-shek,
người Italians và Yugoslavs, người Russian và các nước Tây Âu dân chủ.
Nhưng than ơi, chẳng trông đợi gì có logich hay nhân ái, từ hai bên
những tranh chấp phe phái kể trên.
Không giả dụ rằng những người trẻ nam hay nữ, đang bận bịu học hỏi
những kiến thức chuyên môn giá trị, có thừa được thật nhiều thời giờ để
học triết học, nhưng dẫu chỉ trong khoảng thời gian có thể dành ra thoải
mái mà không tổn thương chuyện học hành các kỹ thuật tinh sảo, triết
học có thể đem lại chắc chắn một số điều sẽ làm tăng giá trị con người
và tư cách công dân của người sinh viên lên rất nhiều. Nó có thể đem lại
một tập quán suy nghĩ chính xác và cẩn thận, không chỉ trong toán học
và khoa học, nhưng trong những câu hỏi có ý nghĩa thực tiễn. Nó có thể
đem lại một tầm rộng và tầm xa khách quan cho quan niệm về các mục đích
đời người. Nó có thể đem cho cá nhân một sự đo lường công bằng về chính
anh ta với xã hội, về con người hiện tại với con người trong quá khứ và
trong tương lai, và về toàn thể lịch sử loài người so với vũ trụ vô
cùng. Bằng mở rộng những đối tượng suy tưởng của mình, nó cung cấp một
liều thuốc giải cho các lo âu và thống khổ của hiện tại, và mở ra thành
được cái thông lộ gần nhất dẫn đến thanh thản, có đấy cho một trí tuệ
nhạy bén trong thế giới trầm luân và vô thường[23] của chúng ta.
Bertrand Russell (1950)
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất (Oct/2009)
Nguồn: Philosophy for Laymen trong “Unpopular Essays” của Bertrand Russell [1]
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất (Oct/2009)
Nguồn: Philosophy for Laymen trong “Unpopular Essays” của Bertrand Russell [1]
--------------------------------------------------------
[1] Russell, “Philosophy for laymen”, in Unpopular Essays London: George Allen and Unwin, 1950: 47.
[2] Chăn nuôi và canh nông. (Tất cả chú thích của người dịch, do đó các sai lầm trong chú thích – nếu có - là của người dịch).
[3] Thomas Jefferson (1743 – 1826) Tổng thống thứ ba của nước Mỹ, là
tác giả chính của bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ông nói rất mạnh mẽ về vấn đề
bãi bỏ nô lệ, đã nhiều lần thực hành ý tưởng này - bãi bỏ hay ít nhất
giảm thiểu chế độ nô lệ.
Tuy vậy phải đợi đến vị tổng thống thứ 16 - Abraham Lincoln – mới bắt đầu thành công chính thức.
[4] Philosophy: từ cổ Greek: φιλοσοφία (philosophía), có nghĩa “yêu
thích sự khôn ngoan” (“love of wisdom.”) - Chúng ta mượn theo người Tàu
đã dịch là - triết học - 哲學. Dùng một từ Tàu để chỉ một ý Tây phương,
nên khập khiễng, thiếu sáng sủa, gây khó khăn cho người đọc; vì nếu
triết tự chữ “triết” 哲– nó không rõ có chứa hai ý chủ yếu của từ
philosophy: lòng yêu thích + sự khôn ngoan.
Wisdom sang tiếng Pháp là sagesse, nhưng người có sagesse là sage =
hiền giả, (Tàu-dịch và chúng ta dùng theo), Socrates là triết gia, mà
cũng còn gọi ông là hiền giả.
Vậy, philosophia hiểu là yêu thích sự hiểu biết có tính khôn ngoan,
sáng suốt, có chỗ dịch là yêu thích trí tuệ, như vậy đi quá xa, tuệ và
wisdom không cùng tính chất, mặc dù hiện nay”tuệ trí” trong Phật học
cũng thường tạm dịch ngược sang Anh ngữ là wisdom.
Tìm nhắc về gốc của một từ (etymology) không phải là định nghĩa từ
ấy, để có ý niệm chính xác triết học là gì - một định nghĩa về nó phải
nói đến đối tượng và phương pháp của nó.
Khi gặp một từ Tây phương, chúng ta có thói quen - không mấy
khôn ngoan - xem người Tàu dịch ra sao, rồi mượn âm Hán Việt, đem dùng.
- Như thế chúng ta học một ý niệm Tây phương - không trực
tiếp, nhưng gián tiếp, qua ngôn ngữ và cách hiểu của người Tàu, không
giàu thêm, vì ý niệm mới - vốn không có - phải nhập cảng, nhưng từ để
chỉ ý niệm đó, cũng nhập cảng nốt. Từ mới đó không phải của chúng ta, mà
là từ Tàu. Tạm gọi là từ Tàu-dịch; Ngôn ngữ chúng ta không giàu, phát
triển thêm, ngày càng dày dặc những từ Tàu-dịch. Đến mức, người đi học
phải biết chữ Tàu, để hiểu một từ, vốn là nguyên gốc của Tây phương và
nội dung hoàn toàn từ và của Tây phương (thí dụ: quĩ đạo, quĩ tích, tích
phân, tiến hóa, biện chứng, duy tâm, xã hội, tư bản, điện toán, giải
mã, lập trình...)
- Các từ ngữ gốc, trong thế giới tư tưởng Tây phương, dần dà với thời
gian, ý nghĩa của nó sẽ thay đổi, hay mở rộng, chuyển biến, nhưng chúng
ta vì mượn từ Tàu, âm Tàu, có thể họ đã dịch đúng - nhưng đúng với hai
tháng hay hai trăm năm trước - nay không trọn đúng nữa, nên khi chúng ta
tiếp tục dùng các từ Tàu-dịch này, không bắt kịp sự thay đổi - rất nhạy
cảm trong nội dung ý nghĩa - của từ gốc, có thể hiểu sai lạc, khiến suy
tưởng lệch lạc, nghèo nàn.
Đôi điều để suy nghĩ thêm.
[5] Sennacherib: hoàng đế Assyria (704 – 681 BC)
[6] Aeschylus: (525 BC/524 BC – c. 456 BC/455 BC) nhà viết kịch cổ
thời Greek. Thường được xem là người khai sinh ra tragedy. Nay chỉ còn
một bản kịch -Prometheus Bound – nhưng nghi ngờ và không chắc là của
ông.
[7] Thomas Aquinas (1225-1274) nhà thần học, lý thuyết gia nổi tiếng
nhất của giáo hội Catô, ông được nhà thờ xưng tụng là thánh, vốn là tu
sĩ, học giả dòng Dominican, Italy.
[8] John Duns Scotus (1265/66-1308) tu sĩ dòng Franciscans, Scotland –
là một lý thuyết gia thần học nổi tiếng và có ảnh hưởng rất lớn lao
thời Trung Cổ Âu châu.
[9] Pythagoras, khoảng 500 BC, có những phát kiến quan trọng về thiên
văn: Biết quả đất hình cầu – dù do tin khối cầu là dạng tuyệt hảo nhất –
hơn là có bằng chứng khoa học chính đáng. Ông cũng biết quĩ đạo mặt
trăng nghiêng về xích đạo quả đất, và là người đầu tiên nhận ra sao Hôm
và sao Mai là một (sao Kim–Venus)
[10] Anaximander người thành Miletus (c.612-545 BC), Triết gia Greek,
học trò Thales, viết bản văn “Về Tự Nhiên” (“On Nature”) trong đó ông
đưa ra khái niệm về biển/tiến hóa (evolution), tuyên bố rằng sự sống
khởi đi từ một thứ chất nhờn lỏng (slime) ở đại dương và sau dần chuyển
lên những chỗ khô cạn. Ông cũng đã đưa ra ý niệm các giống vật biến/tiến
hóa theo thời gian.
[11] Empedocles (c.490-430 BC) Triết gia, nhà thơ, và nhà chính trị ở
Agrigentum, đảo Sicily. Trong thuyết về nguồn gốc vũ trụ (cosmogony)
của ông có thể xem là một thuyết thô sơ về tiến hóa (evolution), tuyên
bố con người và các động vật đều tiến hóa từ các dạng trước nó
(antecedent forms.)
[12] Tín đồ giáo phái Arianism từ nhà thần học Kitô người Greek Arius
(?250-336 AD), nhóm Kitô này tin Christ, tuy là con god, nhưng chỉ là
người thường, không là thần thánh. Bị đàn áp, nhưng không hoàn toàn bị
dập tắt, vẫn còn ở Germany đến thế kỷ VII, và đến nay trong tín đồ các
phái Unitarianism (không tin vào god ba ngôi - nhưng chỉ một) và
Jehovah's Witnesses.
[13] Điển hình là cuộc chiến 30 năm - Thirty Years War (1618-1648) –
những người Tin lành Bắc Âu bị liên quân Catô La Mã tàn sát – riêng nước
Đức ước đoán từ 6 đến 14 triệu người chết, 1/3 dân số nước Đức thời ấy.
Trước đó, tại Pháp, cuộc tàn sát Massacre de la Saint-Barthélemy
những người Catô La Mã Pháp giết hại những người Huguenots - là những
người Tin lành Pháp (1562-1593) – ước định từ 5 đến 30 nghìn người bị
tàn sát.
Trong chiến tranh cuồng tín tôn giáo – kẻ giết người tự xem mình thi
hành sứ mạng trừng phạt của god, và nạn nhân, vì khác tín ngưỡng nên
thấp hơn con người, hay không còn được xem là người; do đó sự tàn ác, dã
man ra ngoài thước đo nhân tính.
[14] Lời Jesus nói với tín đồ, khi chính ông tin ngày tận thế sắp xảy
ra nay mai, và vương quốc Chúa thành đến nơi rồi. Tín đồ nên tẩy sạch
của cái vật chất của mình đi – như đem cho người nghèo.
[15] Vua George (1762-1830) nước Anh, ở tuổi già lẫn lộn, trong một
bữa tiệc có mặt Wellington, tuyên bố là mình cũng có tham dự trận
Waterloo (1815). Điều này không có thực.
[16] Muggletonians - một nhóm Tin lành nhỏ, nước Anh; người chử xướng
là Lodowicke Muggleton, bắt đầu tại London, từ 1651. Họ tránh tất cả
các hình thức nghi lễ, giảng đạo. Các “tín đồ” gặp nhau bàn luận xã giao
vui vẻ, bình đẳng, không chính trị, hòa ái, hoàn toàn tránh chuyện
giảng đạo.
Họ hay gặp nhau ăn uống tối, tiệc tùng thường có rượu bia (beer) nhưng không say sưa, về nhà sớm.
[17] Russell mỉa mai nhắc lại truyền thống đốt người của đạo Kitô.
Nhà thờ của những người đạo Kitô này có lịch sử rất dài đã làm những
chuyện ác độc – thiêu sống là một - như thế, với những người bất đồng
tin tưởng tín ngưỡng với họ hay với đồng đạo không tuân thủ theo các
quan điểm chính thức của giáo hội. Nhưng ngay chính niềm tin tướng căn
bản của những người Kitô, như tin có god , thực ra vẫn chỉ là giả thuyết
(hypothesis) – dù có đông đảo tin theo, vẫn nghĩa là không/chưa chắc
chắn (và có thể mãi mãi không bao giờ thành) là sự thực, là chân lý (như
hai nhân hai là bốn).
Vậy không thể dựa trên một điều chưa/không chắc chắn để hành động –
đốt người – vì đốt người thì ác độc – mà ác độc là chắc chắn, không ai
có thể nghi ngờ, dù trong hay ngoài tôn giáo nào đi nữa.
Nguyên tắc ông đưa ra – khi không chắc chắn thì không thể hành động
như mình chắc chắn, vẫn hành động nhưng sao cho khôn ngoan để hành động
(trên nền tảng chưa chắc chắn) của mình không gây hậu quả tai hại.
Nói theo đạo đức chính trị Á đông – thà tha lầm hơn giết lầm, là một
thí dụ. Giản dị, dễ hiểu, nhưng lịch sử nhân loại cho thấy – rất khó nên
hiếm được thực hành.
[18] Triết học về nhân sinh. Tương tự, môn thiên văn học là khoa học
cổ xưa nhất, các hiền giả Đông Tây (Hylạp, Ấn, Tàu) đều tìm hiểu sự vận
hành của các tinh thể trên vòm trời, tin là có một trật tự nào đó trong
đó mà sau khi biết được rồi, nếu con người cùng ứng xử theo cho thuận
hợp, thì tìm được thịnh vượng, hạnh phúc khi hình nhi thượng (vũ trụ) và
hình nhi hạ (nhân văn) hài hòa.
[19] Tên gọi chung nhóm các nhà thông thái, sống bằng nghề dạy học
(có thu học phí) các môn triết học, khoa học, tu từ hùng biện (rhetoric)
- cổ thời Greece, Athens, thế kỷ V BC.
Những người nổi tiếng như Protagoras, Gorgias, Prodicus và Hippias.
Ngày nay, chúng ta biết về và nhìn họ, qua bài viết của Plato
(sophist) - theo Plato, họ là những kẻ tham lam, không thực sự tôn trọng
chân lý, nhưng chủ tâm tìm quyền lực. Cả ba thày trò Socrates, Plato,
and Aristotle đều không xem các sophists là triết gia.
[20] Chỉ quyến kinh Thánh của đạo Kitô.
[21] Auguste Comte (1798-1857): triết gia Pháp lập một “tôn giáo thế
tục” là chủ nghĩa thực chứng (Positivism), đề cao lý trí và logich. Sau
đó ông hệ thống hoa nó thành một tôn giáo của nhân loại (Religion of
Humanity - Religion de l'Humanité) với đầy đủ tu sĩ, lịch các thánh và
giáo chủ là... ông!
[22] Từ khác chỉ Greek – Từ này “Hellenes” - cổ hơn và người Tàu đã
phiên âm thành “Hylạp”, tên gọi như vậy vì người Greek cho mình là dòng
dõi từ một ông tổ là Hellen, con của Deucalion, và là cháu của
Prometheus and Pronoia.
[23] Nguyên văn: “tortured and uncertain world”- nếu dịch sát, nhưng hẹp nghĩa là “thế giới đọa đày và bất định”.