Bà Đầu Đinh
Cách xưng hô của Việt Nam bị ấn định bởi truyền thống trọng tuổi tác,
hay gọi theo hán Việt là “trọng sỉ”. Có nghĩa là trong cách xưng hô
phải thể hiện cái tôn ti trật tự bất di bất dịch là người trẻ tuổi hơn
phải tôn trọng người lớn tuổi. Ở Việt Nam, xưng hô chính là cách thể
hiện đẳng cấp xã hội. Đẳng cấp xã hội thông qua xưng hô để duy trì sự
tồn tại của nó.
Cách xưng hô là thể hiện đẳng cấp xã hội theo tuổi tác. Cứ nhiều tuổi
hơn thì nghiễm nhiên được xưng hô ở thứ bậc cao hơn. Chỉ cần nghe cách
xưng hô thì biết được tuổi của những người đang trò chuyện, giao tiếp.
Vì vậy, để có thể xưng hô đúng, và không bị chê trách, việc đầu tiên
người Việt Nam phải làm là hỏi tuổi để… biết cách xưng hô.
Cách xưng hô là thể hiện đẳng cấp trong quan hệ họ hàng. Toàn bộ cách
xưng hô trong tiếng Việt đều lấy từ những tiếng trong quan hệ họ hàng.
Những mối quan hệ xã hội, không liên quan gì đến họ hàng cũng bị xưng hô
theo những mối quan hệ họ hàng. Khi đã là họ hàng, bất kể là tuổi tác,
địa vị, người ở vị trí trên vẫn có quyền hơn ở vị trí dưới. Điều này
càng làm tăng thêm trọng lượng của thứ bậc trong cách xưng hô.
Cách xưng hô là thể hiện đẳng cấp xã hội khác. Trong nhiều trường
hợp, xưng hô còn thể hiện cả những đẳng cấp xã hội nữa. chẳng hạn, những
người ít tuổi hơn, nhưng ở vị trí cao hơn trong xã hội thì không nhất
thiết phải xưng hô ở ngôi vị thấp hơn.
Đã có lúc người Việt cảm thấy tự hào, cảm thấy hay ho vì cách xưng hô
đa dạng, phong phú của mình. Thực ra cách xưng hô đó, nếu xét theo khía
cạnh thơ, văn thì có thể cũng hay ho. Tuy nhiên, nhìn theo góc độ lối
sống, giao tiếp thì có nhiều chuyện phải bàn. Đã có nhiều người phàn nàn
gặp khó khăn khi gọi điện thoại đến nhà, và không biết phải xưng hô thế
nào, vì không biết đầu dây bên kia là ai, con hay bố. Hoặc ở cơ quan,
hay đến một chỗ đông người, đám cưới, đám giỗ,… mọi người gặp nhiều khó
khăn vì nhiều khi gọi bố bằng anh, gọi con cũng bằng anh…. Những khó
khăn như thế thì nhiều lắm. Chính người Việt cũng đã biết những bất lợi
đó trong xưng hô. Nhưng cái cách “lễ nghi” và “thứ bậc” đó đã ăn sâu vào
rất nhiều người. Đặc biệt những khi cần cư xử tỏ ra lịch sự thì càng
phải “tính toán kỹ”.
Không chỉ bất tiện trong lối sống, giao tiếp, cách xưng hô của tiếng
Việt còn thể hiện sự bất bình đẳng, không dân chủ. Giữa những cá nhận
trong xã hội, lẽ ra, theo hiến pháp, pháp luật là có quyền bình đẳng.
Tuy nhiên, trên thực tế, xưng hô luôn thể hiện thứ bậc về tuổi tác, về
mối quan hệ họ hàng, về địa vị. Cách xưng hô đã vô hình chung thể hiện
rằng không có một sự bình đẳng mặc định nào cả. Thực tế tuổi tác (ít
nhất là tuổi tác) chính là cái đã mặc định để xác định thứ bậc của mỗi
người trong giao tiếp, ứng xử xã hội.
Trong những xã hội có bình đẳng, có dân chủ, cách xưng hô đã cho phép
những người trong xã hội được bình đẳng với nhau, mà không cần phân
biệt tuổi tác, mối quan hệ gia đình, họ hàng, hay địa vị xã hội. Sự dân
chủ, bình đẳng trong những xã hội đó thể hiện ngay trong sự tôn trọng
địa vị bình đẳng của mỗi cá nhân. Cho dù tuổi tác khác nhau, cho dù mối
quan hệ gia đình, họ hàng thế nào, cho dù địa vị xã hội ra sao, họ vẫn
dùng cùng một cách xưng hô.
Tôi nghe nói, trong những xã hội khác, có sự phân biệt giới (bất bình
đẳng nam – nữ) trong ngôn ngữ. Chẳng hạn trong cách chia động từ, trong
giống của danh từ, và trong cách sử dụng những từ ngữ riêng cho từng
giới... Ở Việt Nam thì không có sự phân biệt đó (do may mắn chăng) nhưng
lại có bất bình đẳng trong tuổi tác, trong các mối quan hệ họ hàng.
Nguyên nhân do đâu, điều này có lẽ các nhà nghiên cứu nhân chủng học
phải trả lời.
Có lẽ do Việt Nam kém phát triển về khoa học, kỹ thuật, con người
sống dựa chủ yếu vào kinh nghiệm. Ai có kinh nghiệm nhiều hơn thì được
kính trọng hơn. Và thế là người già được ở vị trí cao hơn. Một lý do
nữa, có lẽ là, do Việt Nam là nước nông nghiệp kém phát triển, người
nông dân không sống đơn lẻ được. Họ phải sống dựa vào cộng đồng. Cộng
đồng ở đây chủ yếu là họ hàng trong làng. Họ cần tôn trọng cái mối quan
hệ họ hàng, làng xã đó. Vì thể cách xưng hộ cũng phải đề cao, tôn trọng
họ hàng. Và luôn thể hiện rằng chúng ta có mối quan hệ đó.
Trong xã hội đô thị hóa, phi nông nghiệp, con người không còn dựa vào
nhau theo những cách thức như truyền thống nữa, thì những cách xưng hô
như trước đây sẽ bộc lộ những khiếm khuyết. Và con người trong xã hội
bắt đầu cảm thấy có khó khăn khi giao tiếp trong xã hội hiện đại mà vẫn
phải tuân thủ những quy tắc xưng hô cũ (chẳng hạn như những ví dụ đã nêu
ở trên).
Trong xã hội hiện đại với những yêu cầu về bình đẳng, dân chủ, thì
những cách thức xưng hô có sự áp đặt mặc định (theo tuổi tác, theo quan
hệ họ hàng…) bộc lộ những cản trở mỗi con người trong việc khẳng định
quyền bình đẳng của mình. Nhiều người, theo thói quen, cảm thấy thoải
mái với cách xưng hô với người lớn tuổi hơn mình là ông, bà cô, chú,
bác, anh, chị…. Trong nhiều mối quan hệ, người nhiều tuổi hơn (nhưng
nhiều khi lại không hơn người trẻ về bất cứ khía cạnh gì) lại lấy quyền
nhiều tuổi hơn để áp đặt. Và người trẻ tuổi hơn, trong nhiều trường hợp,
vì ngại, vì sợ mình mang tiếng vô lễ… mà phải chịu bị thiệt, hoặc bị áp
đặt. Giả sử, cũng hoàn cảnh tương tự, nhưng với người ngang hàng, ngang
tuổi, hoặc thậm chí ít tuổi hơn, thì vẫn người đó, chắc sẽ không chịu
để bị thiệt, bị áp đặt. Trong trường hợp này, nếu trong cách xưng hô
bình đẳng, không phân biệt tuổi tác, thì chuyện người lớn tuổi dùng
quyền hơn tuổi để áp đặt là không thể xảy ra. Đây chính là thể hiện của
sự thiếu bình đẳng, dân chủ do cách xưng hô đem lại.
Ngày trước, đã có thời, từ đồng chí đã được sử dụng rộng rãi để thay
cho tất cả các ngôi thứ 2. Xưng hô “đồng chí – tôi” đã trở thành quen,
thành phổ biến. Quả thực nó đã tạo ra một cách giao tiếp ngầm định khá
bình đẳng, dân chủ. Tiếc thay, từ đồng chí đến nay đã không còn tạo cảm
hứng cho mọi người nữa.
Đã có nhiều ý kiến gợi ra những cách xưng hô với “anh – tôi”, “bạn –
tôi”… Tuy nhiên, những gợi ý đó vẫn chưa được nhiều người hưởng ứng.
Cũng thật khó để có được sự thay đổi. Đã có ý kiến gợi ý rằng cần có một
luật quy định cách xưng hô không phân biệt tuổi tác, chẳng hạn: Ngôi
thứ nhất: Tao, Chúng tao, Chúng Ta; Ngôi thứ hai: Mày, Chúng mày. Ai vi
phạm sẽ bị truy tố. Tuy nhiên, theo tôi, cách xưng hô là do xã hội đồng
thuận mà có được. Dùng áp lực thì sẽ không tồn tại bền được, hoặc nó sẽ
mang ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Vả chăng, cách xưng hô nào mà
chẳng do chính xã hội tạo ra ý nghĩa cho nó. Xã hội thế nào thì cách
xưng hô sẽ thể hiện ý nghĩa thế đó. Cho dù có đặt ra cách xưng hô hay ho
thế nào đó, nhưng rồi nếu chính xã hội không thay đổi thì cách xưng hô
đó sẽ có ý nghĩa xã hội mới mà thôi (như cách xưng hô đồng chí chẳng
hạn). Vì vậy, theo tôi, cách xưng hô thay đổi chỉ có thể có ý nghĩa mới
nếu nó đi cùng với sự biến đổi về xã hội. Và có lẽ, đến lúc xã hội đã
thay đổi theo chiều hướng dân chủ, bình đẳng có thể một cách xưng hô mới
sẽ được tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu mới. Hoặc cũng với những cách xưng
hô cũ, nhưng nó lại mang những ý nghĩa mới. Biết đâu đấy…
HN 29/10/2012