James Kirchick
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Vaclav Havel hẳn đang trở mình dưới mồ.
Khi khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các đảng cộng sản từng độc quyền chính trị ở những quốc gia này hoặc bị cấm hoạt động (như Đảng Cộng sản Liên Xô), hoặc tự giải thể và sản sinh ra một hay nhiều hậu duệ tham gia vào hệ thống đại nghị đa đảng trong chế độ mới. Một bộ phận các đảng hậu duệ này từ bỏ hệ tư tưởng Mác-Lê và chuyển mình theo hướng gần gũi với các đảng dân chủ xã hội truyền thống ở Châu Âu, trong khi một bộ phận khác bảo lưu cương lĩnh cộng sản giáo điều. Dù cách tân hay bảo thủ, hai thập kỉ qua những người cộng sản Đông Âu về đại thể đã không còn đóng một vai trò đáng kể nào trong những xã hội mà họ từng thống trị nhiều thập kỉ. Song cuộc khủng hoảng toàn cầu của chủ nghĩa tư bản mà Châu Âu là cái nôi đã nhen nhóm lại hi vọng của những người muốn đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản.
Tác giả bài viết dưới đây nhận định: “Nếu phe cộng sản quay lại nắm quyền ở một nước thuộc khối Xô-viết cũ thì đó sẽ là một cú sốc nặng cho Châu Âu, một đòn đánh vào công cuộc hoàn thiện dân chủ và các thị trường tự do – và, đó chính là cái giá phải trả của cuộc khủng hoảng hiện nay ở Châu Âu.” Với độc giả Việt Nam, những con sóng ngoài khơi này dường như không mấy liên quan đến trận chiến bão táp giữa phái cộng sản đỏ và phe cộng sản đen đang hoành hành trên đất liền. Nhưng phe nào thắng thì một chính quyền cộng sản vẫn tiếp tục là định mệnh của dân tộc này và câu hỏi vì sao người ta chấp nhận định mệnh ấy lại rất gần với câu hỏi vì sao ở một đất nước từng đi đầu trong cuộc đấu tranh để thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản như Cộng hòa Séc, bây giờ người ta lại bỏ phiếu bầu cho đảng cộng sản.
Phạm Thị Hoài
Khi khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các đảng cộng sản từng độc quyền chính trị ở những quốc gia này hoặc bị cấm hoạt động (như Đảng Cộng sản Liên Xô), hoặc tự giải thể và sản sinh ra một hay nhiều hậu duệ tham gia vào hệ thống đại nghị đa đảng trong chế độ mới. Một bộ phận các đảng hậu duệ này từ bỏ hệ tư tưởng Mác-Lê và chuyển mình theo hướng gần gũi với các đảng dân chủ xã hội truyền thống ở Châu Âu, trong khi một bộ phận khác bảo lưu cương lĩnh cộng sản giáo điều. Dù cách tân hay bảo thủ, hai thập kỉ qua những người cộng sản Đông Âu về đại thể đã không còn đóng một vai trò đáng kể nào trong những xã hội mà họ từng thống trị nhiều thập kỉ. Song cuộc khủng hoảng toàn cầu của chủ nghĩa tư bản mà Châu Âu là cái nôi đã nhen nhóm lại hi vọng của những người muốn đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản.
Tác giả bài viết dưới đây nhận định: “Nếu phe cộng sản quay lại nắm quyền ở một nước thuộc khối Xô-viết cũ thì đó sẽ là một cú sốc nặng cho Châu Âu, một đòn đánh vào công cuộc hoàn thiện dân chủ và các thị trường tự do – và, đó chính là cái giá phải trả của cuộc khủng hoảng hiện nay ở Châu Âu.” Với độc giả Việt Nam, những con sóng ngoài khơi này dường như không mấy liên quan đến trận chiến bão táp giữa phái cộng sản đỏ và phe cộng sản đen đang hoành hành trên đất liền. Nhưng phe nào thắng thì một chính quyền cộng sản vẫn tiếp tục là định mệnh của dân tộc này và câu hỏi vì sao người ta chấp nhận định mệnh ấy lại rất gần với câu hỏi vì sao ở một đất nước từng đi đầu trong cuộc đấu tranh để thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản như Cộng hòa Séc, bây giờ người ta lại bỏ phiếu bầu cho đảng cộng sản.
Phạm Thị Hoài
____________
PRAHA — Trụ sở đồ sộ xây bằng đá đỏ của Đảng Cộng sản Vùng Bohemia và
Moravia (ĐCSBM) – đặt tên theo hai vùng chính của Cộng hòa Séc – tọa
lạc trên Phố Tù nhân Chính trị của Praha, ngay đối diện ga tàu hỏa hư
nát có lối kiến trúc art nouveau (tân nghệ thuật) của thủ đô.
Con đường này được đặt tên vào năm 1946 – đúng cái năm Đảng Cộng sản
giành đa số phiếu trong một cuộc bầu cử dân chủ – để tưởng niệm những
người kháng chiến bị Quốc xã cầm tù trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới
thứ hai. Gestapo đặt trụ sở của chúng trên chính con đường này, trong
một tòa nhà đồ sộ trước kia của một gia đình Do Thái nổi tiếng. Vì thế
chính hai ách áp bức kinh hoàng của Quốc xã và cộng sản tiếp tục ám ảnh
góc phố này của thủ đô nước Séc.
Khi tôi nói với Jiri Dolejs, phó chủ tịch ĐCSBM và nghị sĩ quốc hội,
rằng quả thật quá oái ăm khi trụ sở của đảng nằm trên con đường đặt tên
theo các tù nhân chính trị, ông khúc khích cười và thừa nhận có “nghịch
lý hiển nhiên”. Cái chế độ cộng sản cai trị Tiệp Khắc từ năm 1948 đến
khi xảy ra cuộc Cách mạng Nhung thanh bình vào năm 1989 đã giam giữ hơn
250.000 tù nhân chính trị. Người tù nổi tiếng nhất, nhà soạn kịch Vaclav
Havel, được bầu làm tổng thống đầu tiên của nước Tiệp Khắc hậu cộng
sản. Khi Havel qua đời ở tuổi 75 vào tháng 12 năm 2011, một đám đông tự
phát đổ về Quảng trường Wenceslas ở trung tâm Praha và tự động tổ chức
thắp nến cầu nguyện cho ông; những ngọn nến tiếp tục thắp sáng ở đó
trong suốt một tháng trời. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, thế giới chú
ý đến triết gia dũng cảm này và di sản phản kháng bất bạo động của ông
chống lại chủ nghĩa toàn trị cộng sản.
Bởi vậy thật lạ là chưa đầy một năm sau khi Havel mất, chủ nghĩa cộng sản ở Cộng hòa Séc đang tìm cách quay trở lại. Một loạt các cuộc khảo sát gần đây
cho thấy Đảng Cộng sản – chưa bao giờ xin lỗi đúng mức về bốn thập niên
cai trị cực quyền của mình – là đảng có tiếng tăm đứng thứ nhì ở Séc
với tỉ lệ ủng hộ hơn 20 phần trăm. Trong mấy tuần sắp đến Séc có thể tổ
chức bầu cử quốc hội trong khi chính phủ trung hữu hiện đang ở thế ngàn
cân treo sợi tóc. Sau kỳ bầu cử này, Đảng Cộng sản có thể trở lại chính
quyền trong chính phủ liên minh với đảng đối lập Dân chủ Xã hội. Nếu quả
vậy, Cộng hòa Séc sẽ là nước châu Âu hậu cộng sản đầu tiên có đảng cộng
sản trở lại cầm quyền.
Đối với những người Séc vẫn ngâm nga khẩu hiệu trong chiến dịch năm 1989 của Havel “Tình yêu và sự thật sẽ chinh phục dối trá và hận thù”
một cách thực lòng chứ không hề mỉa mai, điều này quả chẳng khác nào
khủng hoảng quốc gia. Một số người đã cho rằng ĐCSBM lẽ ra đã nên bị đặt
ra ngoài vòng pháp luật sau thời kỳ quá độ sang dân chủ, như trường hợp
một đảng cực hữu đã bị cấm vào năm 2010. Viết trên tờ Respekt, tuần báo thiên hướng tự do của Séc, nhà báo Katerina Safarikova gọi
vấn đề hóc búa này về Đảng Cộng sản là “một cuộc tranh luận mà cha ông
chúng ta lẽ ra đã nên giải quyết dứt điểm hồi đầu thập niên 1990”, khi
mà một lệnh cấm như vậy hẳn đã rất hợp lòng dân. Bình luận viên chính
trị Petr Novacek khuyến cáo rằng, nếu Đảng Dân chủ Xã hội liên minh với Đảng Cộng sản, họ sẽ có nguy cơ “trở thành con chiên ghẻ của Quốc tế Xã hội”. [1]
Tuy nhiên, Dolejs nghĩ rằng những phản ứng đó đều quá trớn. Từ diện
mạo đến lời ăn tiếng nói, trông ông chẳng giống như phát ngôn viên cho
một đảng “Stalinist đích thực”, theo cách nhà báo Safarikova mô tả
ĐCSBM. Với thái độ vui vẻ, mái tóc dài phủ gáy và chiếc áo khoác thể
thao không vừa vặn, ông giống một người bán xe cũ thời Xô-viết, mặc dù
món mà ông đang rao bán – chủ trương nhà nước kiểm soát nền kinh tế –
phải nói là nguy hiểm hơn một con xe Skoda cũ. Dolejs mê khoa học viễn
tưởng đến cuồng nhiệt: những áp phích từ nhiều hội nghị khoa học viễn
tưởng chiếm chỗ trên tường trong văn phòng ông cạnh những áp phích Karl
Marx và Albert Einstein, cũng như những tờ quảng cáo tranh cử có in hình
Dolejs tươi cười. Cái mớ hổ lốn tạp nhạp này có thể vừa thể hiện vẻ phù
phiếm của người tiếp chuyện tôi vừa cho thấy ĐCSBM thiếu một lịch sử
hữu dụng.
Dolejs vào đảng hồi tháng Giêng năm 1989, ở tuổi 28. Lúc đó là thời
điểm kém may mắn về mặt lịch sử, vì chưa đầy một năm sau đó chế độ cộng
sản bị lật đổ. Chỉ mới 51 tuổi, Dolejs trẻ hơn nhiều so với phần lớn cử
tri bỏ phiếu cho đảng, với tuổi trung bình 75. Với tư cách lãnh tụ phe cải cách của ĐCSBM, ông là một trong những người cộng sản nổi tiếng nhất Séc, viết blog cho một trang tin tức Internet được nhiều người ưa thích ở Séc. Năm 2006, ông là mục tiêu của một vụ tấn công bạo lực
trong đó bọn du côn cực hữu vừa đánh ông đến mặt máu đầm đìa vừa rủa xả
những lời lẽ chống cộng. Quốc hội Séc đồng thuận lên án vụ tấn công
này, và Dolejs được nhiều người cảm thông.
Nay thì Dolejs có thể cười tươi như hoa. Bao năm qua, những người
cộng sản Séc dường như chỉ đứng bên lề: Họ mải bận tâm với việc phản đối
Liên hiệp Châu Âu, một sứ mệnh không hợp lòng dân ở một đất nước nhìn
chung vui mừng vì đã được nhận vào câu lạc bộ đó và cảm kích trước những
nguồn tiền từ Brussels rót về. Song khủng hoảng kinh tế Châu Âu đã làm
lay chuyển lòng tin vào Liên hiệp Châu Âu, tuy Cộng hòa Séc vẫn duy trì
đồng tiền riêng của mình và đồng tiền này vẫn còn mạnh.
Giữa thời kỳ khủng hoảng, chính phủ Séc hiện tại – một liên minh của
ba đảng trung hữu lên nắm quyền hồi năm 2010 – đã thông qua một số biện
pháp thắt lưng buộc bụng nghiêm ngặt; những biện pháp này góp phần khiến
chính phủ mất lòng dân. Những biện pháp này bao gồm
cắt giảm chi tiêu hơn ba tỉ đô-la trong năm tới, cũng như tăng đáng kể
thuế thu nhập cá nhân và thuế trị giá gia tăng. Nền kinh tế đang co lại
và nước Séc gần đây bước vào quý thứ ba bị suy thoái. Hồi tháng Tư,
khoảng 90,000 người đổ về Quảng trường Wenceslas ở Praha để phản đối
những cải cách này trong cuộc biểu tình xem như lớn nhất kể từ sau những
cuộc biểu tình lật đổ chế độ cộng sản năm 1989. Nhưng nay, 23 năm sau,
cơn phẫn nộ chống chính quyền lại đang có lợi cho những người cộng sản.
Cộng thêm vào những tai họa của liên minh trung hữu là một loạt những
vụ tai tiếng tham nhũng. Hồi tháng Bảy, chính phủ liên minh này vượt
qua cuộc bỏ phiếu tín nhiệm trong gang tấc, mà đó là lần thứ tư kể từ
liên minh này lên nắm quyền. Theo một cuộc trưng cầu dân ý hồi tháng 12 năm ngoái, chỉ có 26 phần trăm người Séc mãn nguyện với nền dân chủ của họ, trong khi một cuộc khảo sát năm nay cho thấy phần
lớn người Séc thực ra thích hệ thống cộng sản hơn hệ thống hiện tại.
Cảm nhận được một cơ hội sau hai thập niên lạc lõng trên chính trường,
phe cộng sản đã khôn khéo chuyển trọng tâm sang công kích nạn tham
nhũng: Một áp phích ở cầu thang trong văn phòng đảng vẽ một con dơi hút
máu mang chữ viết tắt tên của những đảng trong liên minh cầm quyền thọc
nanh xâu xé đất nước. “Đất nước chúng ta có thể cam chịu bao nhiêu nữa?”
tấm áp phích đặt câu hỏi. “Chính phủ ‘hút máu’ này phải ra đi.”
* * *
Sau bốn mươi mốt năm cai trị độc đoán, đẫm máu, làm sao những người
cộng sản có thể trở lại? Một câu trả lời nằm ở lịch sử chính trị độc
nhất vô nhị của Tiệp Khắc. Đảng Cộng sản Tiệp Khắc được thành lập năm
1921 và, khác với những đảng cộng sản khác trong khu vực – rốt cuộc cũng
hình thành những phần tử có tư tưởng cải cách về sau thay đổi đảng từ
bên trong cho phù hợp với những đường lối dân chủ xã hội – Đảng Cộng sản
Tiệp Khắc vẫn giữ lối tư duy chính thống sau khi Chiến tranh Lạnh chấm
dứt. Sau Cuộc nổi dậy Praha 1968 – thời kỳ cải cách ngắn ngủi kết thúc
trong bạo lực với cuộc đổ quân của Liên Xô – đảng đã khai trừ một phần
ba số đảng viên, tức khoảng nửa triệu người. Để đảm bảo không một dấu
vết nào của những tư tưởng tự do có thể tái xuất hiện, đảng rút lại
những quyền tự do báo chí hạn chế được giới lãnh đạo đảng trước kia cho
phép, sự kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế được áp dụng rộng và
sâu hơn, và một làn sóng mới những người Séc và Slovak phải rời khỏi
đất nước.
Vì thế khi xảy ra Cách mạng Nhung năm 1989, chẳng mấy ai trong Đảng
Cộng sản ủng hộ cải cách trên diện rộng; những ai ủng hộ thì bị gạt ra
ngoài lề. Tuy nhượng bộ trước cuộc nổi dậy ôn hòa, nhưng Đảng Cộng sản
Séc vẫn khư khư bám giữ chủ thuyết Marxist của mình. Và trong khi những
đảng cộng sản ở các nước khác thuộc Khối Đông Âu cũ giải thể (Ba Lan),
chuyển thành các đảng dân chủ xã hội (Hungary), hoặc sáp nhập với các
đảng dân chủ xã hội đã có trước (Slovakia), những người cộng sản Séc
chẳng hề chọn những con đường đó. Thay vì vậy, ngay sau thời kỳ quá độ
sang dân chủ, đảng chia đôi theo khu vực bầu cử của mình – một cho Cộng
hòa Séc và một cho Cộng hòa Slovakia – và ít nhất là ở vùng nay là Cộng
hòa Séc, Đảng Cộng sản kể từ đó đến nay vẫn duy trì quan điểm Marxist
giáo điều của mình.
Do đảng không chịu giảm bớt giáo điều cộng sản hay nhận lỗi đúng mức
cho quá khứ của mình, không thể có chuyện sáp nhập với Đảng Dân chủ Xã
hội, phong trào chính trị lâu đời nhất ở nước này. Với tỉ lệ ủng hộ
thường xuyên ở mức từ 10 đến 20 phần trăm, duy trì Đảng Cộng sản lại là
điều hợp lý. Và Đảng Cộng sản trước nay đã thành công trong việc giữ
lòng trung thành của những đảng viên nòng cốt: Theo một nghiên cứu
năm 2009 của Mary Stegmaier, nay làm việc ở Viện Đại học Missouri, và
Klara Plecita thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Séc, hai phần ba đảng
viên ĐCSBM có hơn bốn mươi năm tuổi đảng. Sáu mươi phần trăm cử tri
cộng sản cho biết họ đã “luôn luôn bỏ phiếu cho” Đảng Cộng sản; tỉ lệ
trung thành này cao hơn nhiều so với tỉ lệ mà bất cứ đảng nào khác ở
nước này đạt được. Ngược lại, ở nước láng giềng Slovakia, tàn dư của
Đảng Cộng sản chỉ giành được chưa đến hai phần trăm số phiếu. Năm 2004,
đảng này sáp nhập với Đảng Dân chủ Xã hội của Slovakia.
Vì vậy, việc ĐCSBM hiện ngày càng được ưa thích hơn một phần do tình
cờ, một phần do hoàn cảnh. Do không chịu cải cách sau khi Liên Xô sụp
đổ, đảng duy trì lý do tồn tại của mình – và giữ phần lớn sức lôi cuốn
của mình trong một bộ phận dân chúng vẫn còn hoài niệm thời kỳ có việc
làm, nhà ở và hưu bổng được chính phủ bảo đảm. Đồng thời, sự trở lại của
Đảng Cộng sản cũng là kết quả của những sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát
của họ – đó là hiện trạng kinh tế èo uột của đất nước và một loạt gần
như vô tận những vụ tai tiếng tham nhũng trong chính phủ.
Chiến dịch của Đảng Cộng sản hiện nay công kích giới thực thi chính
sách thắt lưng buộc bụng đã giành được cảm tình của những người hưởng
phần ít nhất từ chủ nghĩa tư bản có tính dân chủ. Như Stegmaier và
Plecita đã phát hiện trong nghiên cứu của họ về những người ủng hộ đảng,
“những người có những nhận định tiêu cực hơn về tình hình kinh tế quốc
dân hoặc về nền dân chủ ở Cộng hòa Séc có khả năng ủng hộ ĐCSBM nhiều
hơn”. Một cuộc trưng cầu ý kiến gần đây cho thấy
70 phần trăm người Séc nhận xét tình hình kinh tế của đất nước là “tệ”
hoặc “rất tệ” và chỉ có 6 phần trăm có nhận định tích cực về kinh tế,
nghĩa là cử tri hiện đã sẵn sàng đón nhận những lời hứa của Đảng Cộng
sản. Khi người Séc có những thái độ tiêu cực hơn đối với nền kinh tế và
nền dân chủ của họ, tỉ lệ ủng hộ cho đảng cực đoan, “chống chế độ” chắc
chắn sẽ tăng lên.
Những biện pháp thắt lưng buộc bụng gần đây sẽ chỉ khiến cho xu hướng
này càng xấu hơn: Trong những biện pháp này có cắt giảm hệ thống hưu
trí có thể khiến cho các khoản hưu bổng cho người cao niên – giới ủng hộ
trung thành nhất của Đảng Cộng sản – sẽ không bắt kịp lạm phát. Nhà
phân tích kinh doanh David Marek nói với Đài
Phát thanh Séc hồi đầu năm nay: “Có một nhóm người có thể bị ảnh hưởng
nặng nề nhất, và đó là những người già”. Hồi tháng Năm, tại Séc đã diễn
ra cuộc biểu tình đông đảo đầu tiên của giới hưu trí.
Dolejs một mực khẳng định rằng Đảng Cộng sản đã hiện đại hóa và đủ
năng lực đáp ứng những thách thức hiện nay. “Chúng tôi đã sống qua thế
kỷ 20, và chúng tôi hiểu những vấn đề của một nền kinh tế độc đoán, phi
thị trường”, ông nói với tôi, như để nhắc lại lập trường của đảng cho
rằng đảng đã nhìn nhận đúng mức về quá khứ của mình. Nhận định đó dựa
vào một đại hội hồi tháng 12 năm 1989, một tháng sau khi Cách mạng Nhung
đánh bật đảng khỏi vị trí cầm quyền, khi Đảng Cộng sản khai trừ những
lãnh tụ được dựng lên sau đợt thanh trừng của Liên Xô năm 1968, và đưa
ra một lời xin lỗi chung chung “về những sự kiện sau năm 1968 và về việc trục xuất và quấy nhiễu những người vô tội”.
Tuy nhiên, với nhiều người Séc, “lời xin lỗi” này thuần túy mang tính cơ hội. Ngay trong tháng trước khi lời tuyên bố đó được đưa ra, đảng đã mất khoảng 70.000 trong số 1,7 triệu đảng viên của mình và tuyên bố phá sản. Và cách hành xử của đảng kể từ những thay đổi đó khiến người ta hoài nghi liệu đảng đã rút được bài học gì từ quá khứ. Tuyên ngôn trong chiến dịch năm 1996 của đảng xem giai đoạn 40 năm đảng cầm quyền không có đối lập là đã tạo ra “một trong những thời kỳ phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế vĩ đại nhất”. Tháng 12 năm ngoái, khi Quốc hội Séc tổ chức phút mặc niệm để tưởng nhớ Havel, bốn nghị sĩ đảng viên cộng sản bỏ ra ngoài để phản đối. (Dolejs chỉ ra rằng đa số đại biểu cộng sản vẫn ở lại trong phòng và ông có ký vào sổ phân ưu của Havel.)
Tuy nhiên, với nhiều người Séc, “lời xin lỗi” này thuần túy mang tính cơ hội. Ngay trong tháng trước khi lời tuyên bố đó được đưa ra, đảng đã mất khoảng 70.000 trong số 1,7 triệu đảng viên của mình và tuyên bố phá sản. Và cách hành xử của đảng kể từ những thay đổi đó khiến người ta hoài nghi liệu đảng đã rút được bài học gì từ quá khứ. Tuyên ngôn trong chiến dịch năm 1996 của đảng xem giai đoạn 40 năm đảng cầm quyền không có đối lập là đã tạo ra “một trong những thời kỳ phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế vĩ đại nhất”. Tháng 12 năm ngoái, khi Quốc hội Séc tổ chức phút mặc niệm để tưởng nhớ Havel, bốn nghị sĩ đảng viên cộng sản bỏ ra ngoài để phản đối. (Dolejs chỉ ra rằng đa số đại biểu cộng sản vẫn ở lại trong phòng và ông có ký vào sổ phân ưu của Havel.)
Tương phản với cách hành xử đó là phản ứng của đảng với cái chết (chỉ
trước đó một ngày) của nhà độc tài Kim Chính Nhật của Bắc Triều Tiên:
Chủ tịch đảng Vojtech Filip gởi thư chia buồn đến con trai và người kế
nhiệm của ông, Kim Chính Ân, nói rằng Đảng Cộng sản [Séc] “hết sức kính
trọng” Kim Chính Nhật, ca ngợi
ông là vị lãnh tụ “đã hiến dâng đời mình để mang lại hạnh phúc cho nhân
dân Triều Tiên”. Khi tôi hỏi Dolejs về chuyện này, ông khẳng định bức
thư đó chỉ là một thủ tục ngoại giao. (Bức thư đó đã khiến bộ trưởng tư
pháp Séc yêu cầu cảnh sát điều tra về việc liệu vị lãnh tụ cộng sản có vi phạm hiến pháp
của Séc hay không; hiến pháp Séc quy định rằng “hệ thống chính trị”
phải bao gồm “những chính đảng tôn trọng những nguyên tắc dân chủ cơ bản
và không chấp nhận bạo lực như một phương tiện khẳng định những lợi ích
của mình”.)
Ngay sau cuộc Cách mạng Nhung, nhiều nhân vật dân chủ quan trọng như
Havel đã phản đối những lời kêu gọi cấm Đảng Cộng sản, hy vọng tránh
được cảnh “huynh đệ tương tàn”, điển hình trong sự tan rã của Nam Tư.
Trong cuộc bầu cử hậu cộng sản đầu tiên của Cộng hòa Séc, Đảng Cộng sản
giành được 13,2 phần trăm số phiếu, một tỉ lệ ủng hộ khá tốt khiến bất
kỳ nỗ lực mới nào nhằm cấm đảng này trở nên nguy hiểm về mặt chính trị.
Một số người phản đối việc cấm nhắc đến đặc điểm dân số như một lý do
không phải lo ngại về sự trỗi dậy trong tương lai của Đảng Cộng sản: Mặc
dù có số đảng viên đóng đảng phí nhiều gấp đôi bất cứ chính đảng nào
khác, ĐCSBM đang mất đi khoảng 5.000 đảng viên mỗi năm, có thể là do các
nguyên nhân tự nhiên.
Tuy nhiên, trái với những hy vọng của Havel, ĐCSBM không bấp bênh
trên bờ vực chìm vào quên lãng. Đảng liên tục thu hút một số thành phần
nghèo khó trong xã hội – chỉ có 14 phần trăm cử tri ĐCSBM có trình độ
trung học – và, hết sức quan trọng là những người rất bất mãn với hệ
thống chính trị Séc. Song đôi khi những nỗ lực không đều đặn của đảng
nhằm làm dịu đi hình ảnh của mình trước công chúng nghĩa là đảng phải tự
tránh xa thành phần xưa nay vốn là bộ phận cử tri đương nhiên của các
đảng cộng sản – lớp trẻ cực đoan. Biến cố lớn nhất
làm rúng động chính trị Séc trong mấy tháng gần đây là chuyện một thanh
niên 26 tuổi dùng súng hơi bắn Tổng thống Vaclav Klaus tại một lễ khánh
thành cầu. Là người ủng hộ Đảng Cộng sản, kẻ tấn công này nói với báo
chí rằng trò ám sát giả của anh ta là nhắm vào một người “mù và điếc
trước những lời ta thán của nhân dân”.
Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Âu là lộc trời cho đối với những đảng
cánh tả thất sủng, và Đảng Cộng sản Séc đã lợi dụng bằng cách từ bỏ
những lời lên án chủ nghĩa tư bản nặng mùi ý thức hệ để áp dụng những
đòn chỉ trích thực tế về tham nhũng, bọn hoạt đầu chính trị, và những
biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt. Theo Dolejs, dười thời cộng
sản, “nền kinh tế ngầm” chiếm khoảng 6 đến 7 phần trăm toàn bộ nền kinh
tế, trong khi hiện nay nó chiếm khoảng 20 phần trăm. “Chúng tôi hoàn
toàn không có liên hệ với người giàu và những giới quyền lực này, nên
chỉ cần lý do đó là đủ để nhân dân có thể tin tưởng chúng tôi’, ông nói.
Lối nói này oái ăm thay lại nghe giống như những lời chỉ trích thời kỳ
hậu cộng sản của Havel; ông thường kêu ca về “chủ nghĩa cộng sản mafia”
và chủ nghĩa tiêu dùng hoành hành trên đất nước sau năm 1989.
Vì vậy, quả là nghịch lý khi chính cái đảng đã cai trị đất nước bằng
quả đấm thép trong hơn bốn thập niên nay lại đang tự định vị mình là lựa
chọn chống lại chế độ hiện hành. Một nghị quyết
gần đây của ĐCSBM chỉ trích chính phủ liên minh tuyên bố rằng “những
biện pháp hạn chế cả dân chủ lẫn tự do ngôn luận của công dân đã được
thực hiện, những hành động của nhà cầm quyền trong các vụ tố tụng hình
sự đều bị ảnh hưởng công khai có lợi cho đảng viên hoặc người ủng hộ các
đảng cánh hữu, an ninh của công dân không được bảo đảm”. Quả là một
phát biểu giả ngơ giả điếc từ miệng của một đảng đã loại trừ dân chủ và
tự do ngôn luận, dàn dựng những phiên tòa nặng tính trình diễn, và
thường xuyên vi phạm những quyền cơ bản nhất của công dân trong bốn mươi
mốt năm.
Thế nhưng có nguy cơ Đảng Cộng sản lại có thể ung dung thoát được búa
rìu dư luận. Tâm lý bất mãn phổ biến với chính phủ liên minh tiếp tục
tăng lên. Trong khi đó, những công kích của Đảng Cộng sản nhằm vào giới
tư bản tập quyền và những kẻ trục lợi chính trị ở Séc có thể giành được
cảm tình của những người trước nay thụ hưởng ít nhất từ quá trình quá độ
sang chủ nghĩa tư bản dân chủ, đặc biệt là ở thời điểm này toàn châu
lục bị khủng hoảng kinh tế. Đối với một số người Séc, chừng đó cũng đủ
khiến họ nuối tiếc những ngày xa xưa sống trong bình đẳng (chí ít là
trong tưởng tượng).
Nhưng cách truyền đạt thông điệp kiểu tâm thần nửa mê nửa tỉnh của
đảng – vừa ca ngợi Kim Chính Nhật vừa tuyên bố chung chung về việc quay
lưng lại với quá khứ tệ hại – có thể khiến thiên hạ khó mà giải mã được
những động cơ của đảng. Dolejs nói rằng chỉ có chút khác biệt không đáng
kể giữa những chương trình của Đảng Cộng sản và Đảng Dân chủ Xã hội,
gắng hết sức để tách biệt đảng hiện nay với “thành tích” trong lịch sử
của đảng. Ông nói với tôi, “Không có khác biệt thực sự nào giữa ĐCSBM và
[Đảng Dân chủ Xã hội], và không thể có độc quyền chính trị hay kinh tế
tương tự như kiểu của chế độ cũ”. Song, nếu Đảng Cộng sản không hề khác
biệt với Đảng Dân chủ Xã hội được nhiều người ủng hộ hơn, sao lại không
gia nhập với họ?
* * *
Việc ĐCSBM không thể sáp nhập với Đảng Dân chủ Xã hội rõ ràng đã cản
trở sự nghiệp chính trị cánh tả ở Cộng hòa Séc. Tất cả những đảng phái
chính đều không chịu hợp tác với Đảng Cộng sản ở tầm quốc gia: Hiểu rõ
lịch sử cả thế kỷ của phe cộng sản trong việc phá hoại ngầm để bóp chết
phe xã hội dân chủ, Đảng Dân chủ Xã hội đã cẩn thận đến mức đưa vào các
văn bản chi phối hoạt động của Đảng (thông qua cái gọi là “Nghị quyết
Bohumin”) nguyên tắc cấm “hợp tác chính trị với những chính đảng có xu
hướng cực đoan”, trong đó có ĐCSBM.
Tuy nhiên việc cấm hợp tác với đảng lớn duy nhất khác bên cánh tả đã
hạn chế đáng kể khả năng cầm quyền của Đảng Dân chủ Xã hội. Dù Đảng Dân
chủ Xã hội giành được nhiều phiếu hơn bất kỳ đảng nào khác trong kỳ bầu
cử quốc hội năm 2010, do Đảng Dân chủ Xã hội không thể thành lập liên
minh – mà lẽ ra đã có thể dễ dàng thực hiện nếu không có Nghị quyết
Bohumin – nên đã dẫn đến chính phủ trung hữu hiện nay hết sức mất lòng
dân. Bởi vậy chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi một số đảng viên Đảng Dân
chủ Xã hội ủng hộ liên minh với ĐCSBM vì lý do thực dụng.
Cựu Thủ tướng Jiri Paroubek (thuộc Đảng Dân chủ Xã hội) tóm tắt quan
điểm này hồi năm 2005, “Phe cộng sản sẽ không bao giờ trở lại kiểm soát
đất nước này. Tôi nghĩ rằng họ đã bị biến thành con ngáo ộp chính trị
một cách không cần thiết. Stalin không còn ở Điện Kremlin; không có Đệ
tam Quốc tế Cộng sản hay Liên Xô; tình hình quốc tế đã hoàn toàn khác.…
Đảng ĐCSBM sẽ phải hội nhập vào môi trường dân chủ dù họ có muốn hay
không”.
Trong những năm kể từ sau nhận định của Paroubek, Đảng Dân chủ Xã hội
đã thành lập những liên minh với Đảng Cộng sản ở cấp thành phố và cấp
vùng. Vì lý do này, theo Dolejs, chủ đề Đảng Cộng sản quay trở lại tham
gia chính phủ ở cấp liên bang đang dần dần “không còn là đề tài cấm bàn
luận nữa”.
Vị lãnh tụ chính trị Séc nỗ lực nhiều hơn bất cứ ai trong việc bảo
đảm rằng chủ đề này không còn cấm kỵ lại là một nhân vật ít ai ngờ nhất:
đó là một người con dòng cháu giống của một gia đình có lịch sử lâu đời
đấu tranh chống cộng sản. Jiri Dienstbier con – một thượng
nghị sĩ thuộc Đảng Dân chủ Xã hội và là ứng viên tranh cử tổng thống Séc
– là con trai của một trong những người ban đầu ký tên vào Hiến chương 77,
lời thỉnh cầu do phe bất đồng chính kiến phác thảo kêu gọi chế độ cộng
sản Tiệp Khắc tôn trọng nhân quyền. Sau khi cộng sản sụp đổ, Jiri Dienstbier cha trở thành ngoại trưởng đầu tiên của đất nước thời kỳ hậu cộng sản.
Jiri Dienstbier con tiếp tôi trong văn phòng của ông nằm
dưới chân quần thể Lâu đài Prague mang diện mạo như truyện cổ tích. Ông
học hỏi chính trị bên cạnh cha mình và là một lãnh tụ sinh viên chống
cộng sản ở thời điểm diễn ra Cách mạng Nhung. Ngoài cái họ của mình, ông
trở thành chính khách nổi tiếng nhất
của Séc nhờ danh tiếng nói thẳng nói thật. “Tôi sẽ có cảm tưởng như một
tên mafia nếu tôi cố gắng thương lượng với những người này”, Dienstbier
nói với tờ Bưu điện Praha
cách đây hai năm khi, với tư cách là ứng cử viên của Đảng Dân chủ Xã
hội tranh cử chức thị trưởng Praha, ông được hỏi làm sao ông có thể xem
xét việc liên minh với những người từ đảng bảo thủ hàng đầu.
Theo Dienstbier, cuộc tranh luận về việc liệu ĐCSBM có phải là một đảng dân chủ hay không là đạo đức giả. “Nếu đó là một đảng dân chủ, chúng ta nên xem nó nhưng bất kỳ một đảng dân chủ nào khác, kể cả khả năng liên minh”, ông nói. “Khả năng thứ hai – đó không phải là một đảng dân chủ – thì một đảng như vậy không được phép hoạt động, nên bị cấm, theo hiến pháp và luật pháp của chúng ta”.
Theo Dienstbier, cuộc tranh luận về việc liệu ĐCSBM có phải là một đảng dân chủ hay không là đạo đức giả. “Nếu đó là một đảng dân chủ, chúng ta nên xem nó nhưng bất kỳ một đảng dân chủ nào khác, kể cả khả năng liên minh”, ông nói. “Khả năng thứ hai – đó không phải là một đảng dân chủ – thì một đảng như vậy không được phép hoạt động, nên bị cấm, theo hiến pháp và luật pháp của chúng ta”.
Quan điểm của Dienstbier là ĐCSBM sẽ là một đối tác cầm quyền chính
đáng. “Có một số bài phát biểu của một số chính khách Cộng sản không thể
chấp nhận được từ góc độ đạo đức”, ông công nhận, “nhưng đó không phải
là mối đe dọa cho hệ thống dân chủ ở đất nước này”.
Có người cho rằng Dienstbier có quan điểm như vậy là do tính toán
chính trị, và rõ ràng việc mở rộng vòng tay rào đón Đảng Cộng sản sẽ cải
thiện đáng kể cơ may cầm quyền của Đảng Dân chủ Xã hội. Tuy nhiên lịch
sử gia đình của Dienstbier cũng khiến quan điểm của ông có trọng lượng
hơn: Cha ông từng làm nhà báo hoạt động ngầm sau khi bị đuổi việc khỏi
đài phát thanh nhà nước và bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản, bị cầm tù,
cùng với Havel, trong ba năm sau năm 1979. Sau khi được thả, ông bị
giáng xuống làm thợ nồi hơi, lao động phục dịch khổ nhọc là việc làm duy
nhất dành cho những người chống đối chế độ (Havel làm việc trong một
nhà máy bia). Nói cách khác, Dienstbier có nhiều lý do hơn phần lớn
những người khác để mong Đảng Cộng sản Séc bị tống vào sọt rác của lịch
sử. Ông nói “thật vô lý” nếu cho rằng ông có ảo tưởng về Đảng Cộng sản.
(Lời kêu gọi của Dienstbier về việc hợp tác với phe cộng sản đã nhận
được sự ủng hộ của Milos Zeman, cũng là ứng cử viên tranh chức tổng
thống và cựu Thủ tướng thuộc Đảng Dân chủ Xã hội).
Cuộc tranh luận hiện nay về vai trò của Đảng Cộng sản Séc bộc lộ một
đất nước xưa nay tránh né đánh giá trung thực về lịch sử gần đây của
mình vì mục đích vội vàng chuyển sang chủ nghĩa tư bản thị trường. Trong
tâm trí của phần lớn người Séc, chủ nghĩa cộng sản được gộp chung vào
với chủ nghĩa phát xít như một di sản kép của quá khứ nước Séc. Song như
vậy là đơn giản hóa quá – chủ nghĩa phát xít đến Tiệp Khắc trên những
chiếc xe tăng của Adolf Hitler, còn chủ nghĩa cộng sản đến qua thùng
phiếu.
Tệ hơn nữa, quá trình loại bỏ các cán bộ cộng sản khỏi vị trí quyền
lực đã tránh vật lộn với những câu hỏi bất tiện về sự cộng tác với chế
độ của nhiều người Séc. Quá trình sàng lọc – nghĩa là “rọi sáng” – đã
loại trừ những cán bộ cộng sản cao cấp khỏi những chức vụ cao trong
chính quyền, trong khi những cấp dưới của họ phải trải qua một quy trình
sàng lọc bí mật qua đó lý lịch của họ được thẩm định để tìm bằng chứng
về việc cộng tác với chế độ. Tuy nhiên không có phiên tòa nào xét xử các
cựu cán bộ cộng sản và, do các buổi điều trần sàng lọc và kháng cáo đều
xử kín, đất nước không có cơ hội xử lý vai trò của những công dân cá
nhân trong chế độ cộng sản. Điều này càng củng cố khuynh hướng phần lớn
người Séc tưởng tượng chủ nghĩa cộng sản là cái được áp đặt từ nước
ngoài, chứ không phải là một hệ thống được bầu lên nắm quyền và được đa
số người Séc, chí ít là lúc ban đầu, chấp thuận.
Năm 1999, Kieran Williams, lúc đó là giảng viên ở Trường Nghiên cứu Slavơ và Đông Âu ở Đại học University College London, viết:
“Do không đưa việc cộng tác [với chế độ cũ] và trách nhiệm ra thảo luận
trước những nơi như Quốc hội, mà biến nó thành một quy trình hành
chính, luật sàng lọc có lẽ thực sự đã hạn chế việc bàn luận về quá khứ
nói chung”.
Dolejs một mực khẳng định rằng Đảng Cộng sản không quan tâm đến việc
độc quyền quyền lực một lần nữa, rằng họ chỉ là một “đảng bảo đảm an
sinh sơ đẳng căn bản cho từng công dân”. Tuy nhiên, bất luận Đảng Cộng
sản tự quảng bá mình ra sao, phần lớn người Séc dường như hiểu rằng đảng
này đang che giấu ý đồ thực sự của mình để âm thầm lén lút trở lại nắm
quyền. Nếu phe cộng sản quay lại nắm quyền ở một nước thuộc khối Xô-viết
cũ thì đó sẽ là một cú sốc nặng cho Châu Âu, một đòn đánh vào công cuộc
hoàn thiện dân chủ và các thị trường tự do – và, đó chính là cái giá
phải trả của cuộc khủng hoảng hiện nay ở Châu Âu.
Với người Séc, từng trải qua lịch sử gần đây đầy buồn đau, đó sẽ là
một sự đảo ngược kinh khủng. Tôi không thể không dừng lại và tự hỏi
Havel đã quá cố sẽ nghĩ gì, trong khi tôi rời khỏi trụ sở của Đảng Cộng
sản, đi qua dưới một tấm biển khổng lồ lù lù bên trong lối vào có dòng
chữ “CHÚNG TÔI CÓ GIẢI PHÁP” và quay lại Phố Tù nhân Chính trị.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh: James Kirchick, “Return of the Czech Communists”, Foreign Policy, 12/10/2012.
Bản tiếng Việt © 2012 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
[1] Quốc tế Xã hội (Socialist International): tổ chức toàn cầu tập hợp các đảng dân chủ xã hội, xã hội chủ nghĩa và lao động, hiện có 161 thành viên. (N.D.)