Trần Chiến
Hà Nội từng vào trong thơ văn nhiều thế hệ văn
nghệ, từ những người ở xa, những người sống cách nay đã
lâu. Cảm xúc trìu mến, nhớ nhung hoặc thương sót thường là
“chủ đạo”. Những dòng viết để đời ấy đem in ra khiến kẻ
đẩu đâu muốn tìm về nếm náp, còn người tại chỗ thì tự
hào.
Thành phố như một sinh thể phừng phừng, quá đa
dạng, nên ấn tượng trong mỗi tác giả không giống nhau. Tuy
thế, trong trí nhớ của tôi về những trang viết cách nay bẩy
tám chục năm thì ẩm thực là “đầu vị” của nhiều người, và
nó lại phản ánh ngay cái túi tiền của các vị. Một Tô
Hoài có vẻ lầm lụi, thuộc nhiều nết ăn của dân ngoại ô,
quà cho Nguyễn Bính có chiếc bánh giò. Thạch Lam thì không
ai tinh nhã, sang trọng bằng, dù trước ông ít lâu có “me” nọ
bắc bậc đến mức “ăn giò nhả bã”. Sau năm 1954, Nguyễn Tuân
để lại phở, món “quà căn bản” và những lần đi uống rượu
tây (đâu là uống “boóng”) ở khách sạn Metropole. Trong Nam,
là tuyệt phẩm “Thương nhớ mười hai” của Vũ Bằng.
Đấy là trí nhớ, một tài sản ngày càng tồi
tệ của con người ta. Nên chi chả nhắc đến nó nữa, mà bắc
sang những trang sách đang có trước mặt, để điểm lại ấn
tượng dân văn nghệ để lại từng thời khắc.
Nguyễn Huy Tưởng tự nhận mình là “nhà văn
thiên về ca ngợi”. Nhưng năm 1956, trong bút ký (?) “Một ngày
chủ nhật”, ông có những mô tả thật ngổn ngang: “Quần áo
phần lớn màu tối, lạnh và khắc khổ, đồng loạt kiểu cán
bộ. Hà Nội đã mất nhiều màu sắc. Gần mép hè, một cặp
vợ chồng trẻ sánh vai nhau đi. Người phụ nữ có bộ mặt xinh
tươi, bộ tóc uốn mềm mại, bộ áo dài cắt khéo. Sau một
thời gian dè dặt, phụ nữ Hà Nội lại bắt đầu trang điểm.
Nhưng họ vẫn chưa được tự nhiên lắm. Dù sao bộ áo của
người phụ nữ trẻ kia cũng là màu tươi duy nhất trong đám
người đồng phục trên quãng đường này”… “Nhưng hồ Gươm đã
mất nhiều vẻ đẹp lắm rồi. Nước hồ gợn váng, ven đầy rác
rưởi. Bờ không được sạch, lủng củng những quảng cáo vụng
về, bầy vô tổ chức, những biển giới thiệu hình ảnh nước
bạn, hầu như không ai săn sóc, vì mặt kính không mấy khi
sạch xác ruồi muỗi. Có cảm tưởng hồ bị bưng kín và bé
lại. Đường đi có nhiều chỗ lầy lội. Thùng rác như chiếc
quan tài lù lù bên lối đi”… “Phố Tràng Tiền. Người chen
chúc nhau đi lại. Nhiều cán bộ và công nhân viên hơn là
người dân sản xuất bình thường tràn ngập các phố xá trong
những ngày chủ nhật. Phản ánh cái tình trạng của một bộ
máy quan liêu cồng kềnh chưa khắc phục được”.
Dự cảm đầu “ngày về” của Nguyễn Huy Tưởng
rờn rợn những âu lo. Nguyễn Tuân thì “trực giác” hơn. Đâu như
đang đi bộ, anh thanh niên nọ va vào rồi mở mồm xin lỗi, nhà
văn cảm ơn lại “vì anh biết xin lỗi”. Giai thoại này chả
biết chính xác đến đâu.
Cuộc chiến chống Pháp rồi chống Mỹ sau đó
cuốn người ta đi theo mạch sống khẩn trương, khắc khổ. Khi
dòng chẩy ấy “thỉnh thoảng” dừng lại, hình như Nguyễn Khải
là người nhạy bén nhất trong các quan sát, so sánh. Truyện
ngắn “Một người Hà Nội” của ông trở lui lại thời ta mới
trở lại Thủ đô, với một bà cô. “Tôi nói: “Nước được độc
lập vui quá cô nhỉ?”. Cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng
hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ”. Theo cô, chính phủ can
thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục
mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải
sống với nhau ra sao, trai gái phải yêu nhau thế nào, thậm
chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân phố
lại vận động không nên nuôi người ở? Nhà này trước đây có
hai người ở, một anh bếp và một chị vú… Mỗi ngày chị đi
chợ, đều có cán bộ bám theo, dò hỏi: “Chị có bị nhà chủ
hành hạ không? Tiền công có được trả đều đặn không? Thái
độ chính trị của họ là như thế nào?”. Chị vú gắt ầm lên:
“Nếu họ không tử tế thì tôi đã xéo từ lâu rồi, không khiến
anh phải xui”. Chị ta kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe,
bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những chuyện lặt
vặt”.
“Một người Hà Nội” chuyển sang đoạn sau khi
đất nước thống nhất, gia đình bà cô mở tiệc đoàn tụ.
“Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành
phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của
mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn
người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng… Tôi
đã nói điều gì thất thố?”. Một đoạn khác, nhân vật “tôi”
thấy Hà Nội đã sống lại phần xác, còn phần hồn thì chưa.
Cứ nhìn nghe họ buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau
ở ngoài đường là đủ rõ. “Tôi đạp xe ở đường Phan Đình
Phùng, đạp chậm… Một ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh
bánh xe vào đít xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại, nói
cũng nhẹ nhàng: “Cậu đi đâu mà vội thế?”. Hắn không trả
lời, đạp vượt qua rồi quay mặt lại “Tiên sư cái anh già!”.
Lại một buổi sáng tôi đến thăm bạn…, lát lát phải hỏi
thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có
người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ”.
*
Các già văn ấy mỗi người mỗi kiểu “phát
biểu” về Hà Nội. Ông Tưởng âu lo, ông Tuân trực cảm, ông
Khải kín kẽ sau nhân vật “tôi”. Dầu sao thì họ đã khuất
núi cả, còn mỗi già Tô Hoài. Thế còn những người đang sung
sức trên văn đàn hôm nay thì sao? Chẳng may, là tôi lại chơi
với vài người có cảm giác rất nghiệt ngã. Nhà thơ Văn Công
Hùng “mô tả” Hà Nội:
mùa thu trườn qua ngã tư
người xe người xe đông cứng
mùa thu tiếng còi như thét
em trùm mùa thu ninja
và bụi và nóng và trôi
mùa thu chết ngạt trên đường
Mà trước đấy, ông phó chủ tịch Hội Văn nghệ
Gia Lai này đã từng viết, là “Hà
Nội cho anh biết nhớ / mùa đông cồn cào rắc muối trong anh”
Phan Thị Vàng Anh sống nhiều nơi, chủ yếu
phương Nam, và có thời “dính” đến Hà Nội. Trong tập “Gửi
V.B” được giải thơ của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2007 của chị
có câu:
Thốc đến tận tầng ba giọng nói người Hà
Nội
để rồi
Hồ Gươm ngay dưới kia nay đã thành người lạ
“Thốc đến tận…” là cảm giác tức thì. Nhưng
từng thân thuộc mà thành người lạ là chuyển sang chuyện
buồn, một trạng thái ngấm ngầm, sâu xa hơn rồi. “Chuyện” ấy
dần dà to ra. Gần đây, trong truyện ngắn có dáng dấp một
tự sự “Hà Nội tháng 7 năm 2011”, Vàng Anh viết:
“Những người cả tuần mới phải ra phố một
lần, những người một bước là lên ô tô, xuống ô tô có thể
cười chị em Hà Nội mùa này trông giống nhau như tạc: váy
ngắn hở đùi nhưng bên trên là áo chống nắng tùm hum, có mũ
lụp xụp và manchette phủ dài qua hết hai bàn tay, mặt đeo
khẩu trang, mắt đeo kính râm. Trông các chị, các cô rất xấu,
nhưng có đi làm mỗi ngày mới hiểu được vì sao phải thế:
nắng những năm này hình như có trộn cả hơi xăng, muội than,
và da dẻ phấn son rồi không thể mỗi lúc mỗi rửa như thời
còn để mặt mộc làm căn bản… Áo chống nắng mới cách đây
một tuần đã tiến thêm một bước đi kèm váy chống nắng:
quấn quanh thân dưới như xà rông, những chiếc váy này may
bằng vải rẻ tiền càng làm cho thành phố thêm nhếch nhác.
Cả thành phố như đầy những đống giẻ di động, bắt buộc và
có lý…”.
Sau khi quan sát, mô tả, nhà văn sang đoạn sâu
sắc hơn, nghĩ ngợi về căn cốt bên trong đô thị thủ đô:
“Nếu như ở Sài Gòn có cảm giác cái gì cũng
“ngoài” ta, xa ta, thì ở Hà Nội cảm giác cái gì cũng sát
vào ta, cô đặc hơn: trời, cây, người, sự soi mói của con
người, sự thân mật và du đãng của con người, tiếng người…
cái gì cũng như “nước cốt” không ngừng làm ta ngạc nhiên và
hơi sợ hãi vì nó quá gần ta.
Cái sự gần, sự sát ấy, nếu như mới cách đây
khoảng năm năm còn là ở mức dễ chịu vì xe chưa đông lắm,
người chưa đổ về lắm, thì đến năm nay đã trở nên khó chịu.
Thứ nước cốt kia đã thành đậm đặc vì độ dày ken của tất
cả mọi thứ, trở nên ngột ngạt mồ hôi người. Từng ấy sự
soi mói được nhân lên, từng ấy giọng nói Hà Nội nhân lên,
sự cau có ngọt ngào hay giả tạo cũng nhân lên… làm người
phương xa như trúng nắng, xây xẩm. Muốn ra đường gặp một
người quen thì phải cọ xát với cả tá người dưng, nhất là
hẹn ở những phố trung tâm thì người dưng vừa đông, vừa vô
hồn.
Vô hồn là phải, vì đám đông kia tuy sống nhờ
Hà Nội, không muốn rời Hà Nội, nhưng Hà Nội chỉ là một
phương tiện, không phải là nhà. Cứ nhìn những cuộc bia của
hội đồng hương Nghệ An hay Thanh Hóa là hiểu: họ yêu quê họ
biết bao nhiêu – nơi mà họ quyết tâm ra đi… Đó, ngày nay ta
sống trong Hà Nội là sống với các hội đồng hương khổng lồ
và ồn ã. Người Hà Nội gốc với những bà cụ áo phin nõn
rót nước vối ủ cho ta uống, những ông cụ (luôn đi cùng các
bà cụ kia) áo may ô tinh tươm mắt lấp lánh tủm tỉm cười…
ngày càng vắng. Người Hà Nội cổ cũng như cà cuống đồng,
biến đâu hết, thỉnh thoảng bắt được một bà / một ông / một
con tưởng như bắt được linh hồn của một thời”.
Người Hà Nội hằng tự hào về truyền thống
“thanh lịch”, “hội tụ, kết tinh, lan tỏa” của mình. Điều đó
là có thật. Nhưng còn một sự thật khác, là tứ xứ đổ về
đây khai thác, tận dụng, bòn rút thành phố. Xin không cắt
nghĩa nguyên nhân (nông thôn đang trống toang), chỉ nói rằng
nó làm thành phố luộm thuộm, tự phát, nhem nhếch hơn. Hai
quá trình thành thị hóa nông thôn và nông thôn hóa thành
thị cứ cuồn cuộn song hành. Trong gia đình “Hà Nội mới”
trưởng giả, con cái hùng hục híp hóp chát chít trong khi
ông bố chồm hỗm hai chân trên xô pha xỉa răng chanh chách.
Ai đấy sẽ bảo các nhà văn nhà thơ trên đời
này ít lắm, những điều họ cảm thấy, nói ra trên đây chả ai
nghe thấy đâu. Nhưng nhiều khi, rất nhiều khi, sự thật, chân
lý không nằm trong đầu đám đông, mà lại do thiểu số ít ỏi
nắm.
2012
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-10-12