Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2012

Hà Nội đáng thương

Trần Chiến
 
Hà Nội từng vào trong thơ văn nhiều thế hệ văn nghệ, từ những người ở xa, những người sống cách nay đã lâu. Cảm xúc trìu mến, nhớ nhung hoặc thương sót thường là “chủ đạo”. Những dòng viết để đời ấy đem in ra khiến kẻ đẩu đâu muốn tìm về nếm náp, còn người tại chỗ thì tự hào.
Thành phố như một sinh thể phừng phừng, quá đa dạng, nên ấn tượng trong mỗi tác giả không giống nhau. Tuy thế, trong trí nhớ của tôi về những trang viết cách nay bẩy tám chục năm thì ẩm thực là “đầu vị” của nhiều người, và nó lại phản ánh ngay cái túi tiền của các vị. Một Tô Hoài có vẻ lầm lụi, thuộc nhiều nết ăn của dân ngoại ô, quà cho Nguyễn Bính có chiếc bánh giò. Thạch Lam thì không ai tinh nhã, sang trọng bằng, dù trước ông ít lâu có “me” nọ bắc bậc đến mức “ăn giò nhả bã”. Sau năm 1954, Nguyễn Tuân để lại phở, món “quà căn bản” và những lần đi uống rượu tây (đâu là uống “boóng”) ở khách sạn Metropole. Trong Nam, là tuyệt phẩm “Thương nhớ mười hai” của Vũ Bằng.

Đấy là trí nhớ, một tài sản ngày càng tồi tệ của con người ta. Nên chi chả nhắc đến nó nữa, mà bắc sang những trang sách đang có trước mặt, để điểm lại ấn tượng dân văn nghệ để lại từng thời khắc.
Nguyễn Huy Tưởng tự nhận mình là “nhà văn thiên về ca ngợi”. Nhưng năm 1956, trong bút ký (?) “Một ngày chủ nhật”, ông có những mô tả thật ngổn ngang: “Quần áo phần lớn màu tối, lạnh và khắc khổ, đồng loạt kiểu cán bộ. Hà Nội đã mất nhiều màu sắc. Gần mép hè, một cặp vợ chồng trẻ sánh vai nhau đi. Người phụ nữ có bộ mặt xinh tươi, bộ tóc uốn mềm mại, bộ áo dài cắt khéo. Sau một thời gian dè dặt, phụ nữ Hà Nội lại bắt đầu trang điểm. Nhưng họ vẫn chưa được tự nhiên lắm. Dù sao bộ áo của người phụ nữ trẻ kia cũng là màu tươi duy nhất trong đám người đồng phục trên quãng đường này”… “Nhưng hồ Gươm đã mất nhiều vẻ đẹp lắm rồi. Nước hồ gợn váng, ven đầy rác rưởi. Bờ không được sạch, lủng củng những quảng cáo vụng về, bầy vô tổ chức, những biển giới thiệu hình ảnh nước bạn, hầu như không ai săn sóc, vì mặt kính không mấy khi sạch xác ruồi muỗi. Có cảm tưởng hồ bị bưng kín và bé lại. Đường đi có nhiều chỗ lầy lội. Thùng rác như chiếc quan tài lù lù bên lối đi”… “Phố Tràng Tiền. Người chen chúc nhau đi lại. Nhiều cán bộ và công nhân viên hơn là người dân sản xuất bình thường tràn ngập các phố xá trong những ngày chủ nhật. Phản ánh cái tình trạng của một bộ máy quan liêu cồng kềnh chưa khắc phục được”.
Dự cảm đầu “ngày về” của Nguyễn Huy Tưởng rờn rợn những âu lo. Nguyễn Tuân thì “trực giác” hơn. Đâu như đang đi bộ, anh thanh niên nọ va vào rồi mở mồm xin lỗi, nhà văn cảm ơn lại “vì anh biết xin lỗi”. Giai thoại này chả biết chính xác đến đâu.
Cuộc chiến chống Pháp rồi chống Mỹ sau đó cuốn người ta đi theo mạch sống khẩn trương, khắc khổ. Khi dòng chẩy ấy “thỉnh thoảng” dừng lại, hình như Nguyễn Khải là người nhạy bén nhất trong các quan sát, so sánh. Truyện ngắn “Một người Hà Nội” của ông trở lui lại thời ta mới trở lại Thủ đô, với một bà cô. “Tôi nói: “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?”. Cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ”. Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống với nhau ra sao, trai gái phải yêu nhau thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân phố lại vận động không nên nuôi người ở? Nhà này trước đây có hai người ở, một anh bếp và một chị vú… Mỗi ngày chị đi chợ, đều có cán bộ bám theo, dò hỏi: “Chị có bị nhà chủ hành hạ không? Tiền công có được trả đều đặn không? Thái độ chính trị của họ là như thế nào?”. Chị vú gắt ầm lên: “Nếu họ không tử tế thì tôi đã xéo từ lâu rồi, không khiến anh phải xui”. Chị ta kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt”.
“Một người Hà Nội” chuyển sang đoạn sau khi đất nước thống nhất, gia đình bà cô mở tiệc đoàn tụ. “Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng… Tôi đã nói điều gì thất thố?”. Một đoạn khác, nhân vật “tôi” thấy Hà Nội đã sống lại phần xác, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe họ buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ. “Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, đạp chậm… Một ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào đít xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại, nói cũng nhẹ nhàng: “Cậu đi đâu mà vội thế?”. Hắn không trả lời, đạp vượt qua rồi quay mặt lại “Tiên sư cái anh già!”. Lại một buổi sáng tôi đến thăm bạn…, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ”.
*
Các già văn ấy mỗi người mỗi kiểu “phát biểu” về Hà Nội. Ông Tưởng âu lo, ông Tuân trực cảm, ông Khải kín kẽ sau nhân vật “tôi”. Dầu sao thì họ đã khuất núi cả, còn mỗi già Tô Hoài. Thế còn những người đang sung sức trên văn đàn hôm nay thì sao? Chẳng may, là tôi lại chơi với vài người có cảm giác rất nghiệt ngã. Nhà thơ Văn Công Hùng “mô tả” Hà Nội:
mùa thu trườn qua ngã tư
người xe người xe đông cứng
mùa thu tiếng còi như thét
em trùm mùa thu ninja
 
và bụi và nóng và trôi
mùa thu chết ngạt trên đường
 
Mà trước đấy, ông phó chủ tịch Hội Văn nghệ Gia Lai này đã từng viết, là “Hà Nội cho anh biết nhớ / mùa đông cồn cào rắc muối trong anh”
Phan Thị Vàng Anh sống nhiều nơi, chủ yếu phương Nam, và có thời “dính” đến Hà Nội. Trong tập “Gửi V.B” được giải thơ của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2007 của chị có câu:
Thốc đến tận tầng ba giọng nói người Hà Nội
để rồi
Hồ Gươm ngay dưới kia nay đã thành người lạ
“Thốc đến tận…” là cảm giác tức thì. Nhưng từng thân thuộc mà thành người lạ là chuyển sang chuyện buồn, một trạng thái ngấm ngầm, sâu xa hơn rồi. “Chuyện” ấy dần dà to ra. Gần đây, trong truyện ngắn có dáng dấp một tự sự “Hà Nội tháng 7 năm 2011”, Vàng Anh viết:
“Những người cả tuần mới phải ra phố một lần, những người một bước là lên ô tô, xuống ô tô có thể cười chị em Hà Nội mùa này trông giống nhau như tạc: váy ngắn hở đùi nhưng bên trên là áo chống nắng tùm hum, có mũ lụp xụp và manchette phủ dài qua hết hai bàn tay, mặt đeo khẩu trang, mắt đeo kính râm. Trông các chị, các cô rất xấu, nhưng có đi làm mỗi ngày mới hiểu được vì sao phải thế: nắng những năm này hình như có trộn cả hơi xăng, muội than, và da dẻ phấn son rồi không thể mỗi lúc mỗi rửa như thời còn để mặt mộc làm căn bản… Áo chống nắng mới cách đây một tuần đã tiến thêm một bước đi kèm váy chống nắng: quấn quanh thân dưới như xà rông, những chiếc váy này may bằng vải rẻ tiền càng làm cho thành phố thêm nhếch nhác. Cả thành phố như đầy những đống giẻ di động, bắt buộc và có lý…”.
Sau khi quan sát, mô tả, nhà văn sang đoạn sâu sắc hơn, nghĩ ngợi về căn cốt bên trong đô thị thủ đô:
 “Nếu như ở Sài Gòn có cảm giác cái gì cũng “ngoài” ta, xa ta, thì ở Hà Nội cảm giác cái gì cũng sát vào ta, cô đặc hơn: trời, cây, người, sự soi mói của con người, sự thân mật và du đãng của con người, tiếng người… cái gì cũng như “nước cốt” không ngừng làm ta ngạc nhiên và hơi sợ hãi vì nó quá gần ta.
Cái sự gần, sự sát ấy, nếu như mới cách đây khoảng năm năm còn là ở mức dễ chịu vì xe chưa đông lắm, người chưa đổ về lắm, thì đến năm nay đã trở nên khó chịu. Thứ nước cốt kia đã thành đậm đặc vì độ dày ken của tất cả mọi thứ, trở nên ngột ngạt mồ hôi người. Từng ấy sự soi mói được nhân lên, từng ấy giọng nói Hà Nội nhân lên, sự cau có ngọt ngào hay giả tạo cũng nhân lên… làm người phương xa như trúng nắng, xây xẩm. Muốn ra đường gặp một người quen thì phải cọ xát với cả tá người dưng, nhất là hẹn ở những phố trung tâm thì người dưng vừa đông, vừa vô hồn.
Vô hồn là phải, vì đám đông kia tuy sống nhờ Hà Nội, không muốn rời Hà Nội, nhưng Hà Nội chỉ là một phương tiện, không phải là nhà. Cứ nhìn những cuộc bia của hội đồng hương Nghệ An hay Thanh Hóa là hiểu: họ yêu quê họ biết bao nhiêu – nơi mà họ quyết tâm ra đi… Đó, ngày nay ta sống trong Hà Nội là sống với các hội đồng hương khổng lồ và ồn ã. Người Hà Nội gốc với những bà cụ áo phin nõn rót nước vối ủ cho ta uống, những ông cụ (luôn đi cùng các bà cụ kia) áo may ô tinh tươm mắt lấp lánh tủm tỉm cười… ngày càng vắng. Người Hà Nội cổ cũng như cà cuống đồng, biến đâu hết, thỉnh thoảng bắt được một bà / một ông / một con tưởng như bắt được linh hồn của một thời”.
Người Hà Nội hằng tự hào về truyền thống “thanh lịch”, “hội tụ, kết tinh, lan tỏa” của mình. Điều đó là có thật. Nhưng còn một sự thật khác, là tứ xứ đổ về đây khai thác, tận dụng, bòn rút thành phố. Xin không cắt nghĩa nguyên nhân (nông thôn đang trống toang), chỉ nói rằng nó làm thành phố luộm thuộm, tự phát, nhem nhếch hơn. Hai quá trình thành thị hóa nông thôn và nông thôn hóa thành thị cứ cuồn cuộn song hành. Trong gia đình “Hà Nội mới” trưởng giả, con cái hùng hục híp hóp chát chít trong khi ông bố chồm hỗm hai chân trên xô pha xỉa răng chanh chách.
Ai đấy sẽ bảo các nhà văn nhà thơ trên đời này ít lắm, những điều họ cảm thấy, nói ra trên đây chả ai nghe thấy đâu. Nhưng nhiều khi, rất nhiều khi, sự thật, chân lý không nằm trong đầu đám đông, mà lại do thiểu số ít ỏi nắm.
                                                            2012

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 19-10-12

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"