Dấu hiệu của thời gian: hàng trăm dự án bỏ dở là những dấu hiệu rõ ràng của một nền kinh tế bệnh hoạn
Tại những thành phố lớn của Việt Nam, thị trường tài sản một thời
phát triển nhanh chóng nay đang vỡ tan tành ra từng mảnh. Hàng trăm dự
án bỏ dở là những dấu hiệu rõ ràng của một nền kinh tế bệnh hoạn.
Một viên chức cao cấp của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã so sánh những vấn
đề kinh tế của Việt Nam với vụ đổ vỡ thị trường 15 năm trước đã san
bằng nhiều nền kinh tế ở Á châu.
Ông Hứa Ngọc Thuận, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân của thành phố HCM,
một bộ phận chấp hành cao nhất của thành phố, nhận xét “Tôi có thể nói
tình trạng này giống như cuộc khủng hoảng ở Thái Lan vào năm 1997. Những
người đầu tư vào tài sản đã đẩy giá lên cao. Họ mua để đầu cơ – không
phải để dùng.”
Những vấn đề kinh tế của Việt Nam xem ra không trầm trọng bằng những
vấn đề của cuộc khủng hoảng tài chánh 1997 – kinh tế vẫn phát triển ở
mức 4% — nhưng ngày càng có thêm vấn đề.
Việc bắt ông Nguyễn Đức Kiên, một trong những thương gia giầu có
nhất, đã làm cho chỉ số của thị trường chứng khoán đột ngột giảm 4.8%
vào ngày 21/8, một suy thoái lớn nhất trong bốn năm vừa qua.
Việc buộc tội Ông Kiên không rõ ràng. Hệ thống truyền thông của chính
quyền nói rằng ông bị tố cáo có những hoạt động thương mại bất hợp
pháp.
Trường hợp của ông bị xét xử mơ hồ đã nhấn mạnh đến một yếu tố quan
trọng khiến cho những tai họa ở Việt Nam trở nên trầm trọng hơn: Đó là
sự kết hợp vụng về giữa cách lãnh đạo bí mật [và độc tài] của Đảng Cộng
Sản và nền kinh tế tư bản [tự do]. Nó làm lu mờ triển vọng bình phục của
một quốc gia có 91 triệu dân.
Những nhà đầu tư nghi ngờ về khả năng quản trị kinh tế của nhà nước
và mức độ đáng tin cậy của những con số thống kê. Ngân Hàng Nhà Nước
[cách gọi ngân hàng trung ương ở Việt Nam] nói rằng một trong 10 người
vay tiền trong hệ thống ngân hàng đã ngưng không trả nợ. Nhưng tổ chức
Fitch Ratings nói rằng tỉ lệ nợ xấu có thể cao hơn nhiều.
Nếu cuộc khủng hoảng 1997 là do chế độ tư bản cấu kết gia đình bạn bè
(crony capitalism), những vấn đề của Việt Nam cũng có thể được mô tả là
do chế độ tư bản cấu kết gia đình bạn bè nhưng cộng thêm bản chất cộng
sản. Những doanh nghiệp nhà nước đông nghẹt những bạn bè và đồng minh
của các cấp trong Đảng Cộng sản.
Ông Jonathan Pincus, Khoa Trưởng của Chương Trình Giáo Dục KinhTế
Fulbright tại Việt Nam nhận xét rằng “Quốc gia bị thao túng bởi những
người trong quốc gia để làm tiền. Điều cần phải làm là loại bỏ Đảng Cộng
Sản ra khỏi ban quản trị của những công ty quốc doanh. Nhưng tôi không
thấy có một dự tính nào về việc này.”
Giống như tình trạng bong bóng của những thị trường tài sản tại những
nơi khác trên thế giới, những người đầu tư ở Việt Nam lợi dụng tình
trạng tín dụng tự do để xây những tòa nhà với hi vọng sẽ kiếm được lời
nhanh chóng. Một khác biệt căn bản là một số những tổ chức đầu cơ ở đây
là những doanh nghiệp nhà nước có quan hệ với Đảng Cộng Sản và có thể
vay tiền với lãi suất thấp. Những công ty này nay mang những món nợ quá
lớn như hai đại công ty của chính quyền Vinashin và Vinalines, đang “bỡn
cợt” với tình trạng không trả nợ được.
Thành phố HCM vẫn náo nhiệt, đầy du khách, và bị phiền phức với nạn
kẹt xe – tất cả là những dấu hiệu của sức sống. Nhưng sự kiện này che
đậy những triệu chứng của những tai họa kinh tế: những thanh niên khó
kiếm được việc làm; 20% những công ty nhỏ và trung bình phải đóng cửa
trong năm vừa qua; và những dự án cơ sở hạ tầng bị trì hoãn hoặc hủy bỏ.
Ông Lê Đăng Doanh, một kinh tế gia nổi tiếng và một cựu viên chức cao
cấp trong một tổ chức nghiên cứu của nhà nước, nói ông ta lo ngại rằng
những vấn đề ở Việt Nam xẩy ra vào thời điểm kinh tế thế giới đang gặp
nhiều trở ngại vì những món nợ và Âu châu đang phải đối phó với tình
trạng nan giải của đồng Euro.
Ông Doanh so sánh: “Vấn đề ở Việt Nam là một thứ rượu pha trộn rất
độc từ khủng hoảng nợ ở Âu châu, kinh tế trì trệ ở Hoa Kỳ, cộng thêm với
tình trạng kinh tế nguy ngập ở trong nước. Đây là một hỗn hợp rất nguy
hiểm.”
Khu vực tư giúp cho kinh tế tiếp tục vận chuyển – Việt Nam là một
nước xuất cảng nhiều quần áo và giầy vào Hoa Kỳ – nhưng luồng tiền ngoại
quốc đã chậm lại. Cam kết đầu tư nước ngoài là 8 tỉ Mỹ kim (25 tỉ đồng
Mã Lai – Malaysian Ringgit) cho sáu tháng đầu của năm nay chỉ bằng 1/4
mức cam kết trong cùng một thời gian ba năm trước.
Những vấn đề mà những người trẻ Việt Nam phải đối phó không giống như
cuộc khủng hoảng thất nghiệp tại Tây Ban Nha và Hy Lạp, nhưng kiếm việc
không còn tự động như vài năm trước.
Nhà nước dùng những phương pháp vĩ mô cổ điển để giải quyết những vấn
đề kinh tế: giảm số lượng tiền lưu hành để ngăn chặn lạm phát hai số
(trên 10%) và tiếp đến là giảm lãi suất trong năm nay để tiếp sinh lực
cho nền kinh tế.
Tuy nhiên những ngân hàng tiếp tục rất thận trọng một phần vì ngày
càng có nhiều người không có khả năng trả nợ. Mức cung tín dụng đang
giảm và mức tiêu thụ không thay đổi; thí dụ các siêu thị báo cáo hàng
bán giảm 20-30%.
Kinh tế gia Lê Đăng Doanh nhận định rằng Việt Nam cần phải làm nhiều hơn thay vì chỉ bơm tiền và hạ lãi suất xuống thấp.
Ông Doanh nói những công ty quốc doanh thiếu hiệu năng như Vinashin,
bành trướng vô tội vạ vào những lãnh vực mà họ thiếu kinh nghiệm, cần
phải gỡ bỏ, tư nhân hóa, hoặc thu nhỏ lại.
Ông Doanh nhận xét “Đây là thời điểm tốt cho sự phá hủy có sáng tạo.”
Câu này có nghĩa là thay thế những công ty đã được thành lập lâu nay
bằng những công ty có tính chất đổi mới.
Vietnam Faces Economic Meltdown, Thomas Fuller (New York Times, August 25, 2012)
Bản tiếng Việt: Nguyễn Quốc Khải