Nguyễn Thu Trâm
Vừa qua,
một số tờ báo lề đảng lên tiếng phản bác việc các dân biểu Hoa Kỳ đề cử
Bác Sỹ Nguyễn Đan Quế, một nhà hoạt động nhân quyền Việt Nam cho giải
Nobel Hòa Binh 2012. Để bắt đầu phản hồi cho bài báo đó chúng tôi xin
được trích dẫn lại phần đầu của bài báo: “Hai vị dân biểu Hoa Kỳ
Gerry Connolly và Jim Moran vừa làm một việc hết sức sai trái khi đề
cử Nguyễn Đan Quế - kẻ chống đối chính quyền nhân dân hiện đang sống ở
TP Hồ Chí Minh vào danh sách xét trao giải Nobel Hòa bình năm 2012. Như
chỉ chờ có thế, những phần tử phản động người Việt lưu vong tỏ ra phấn
khích và ra sức tô vẽ, tung hô kẻ từng được phương Tây gán cho những hỗn
danh “ngọn cờ đấu tranh cho dân chủ”; “nhân vật bất đồng chính kiến”…
Đây
thực chất là một hành động lố bịch, mù quáng; trò kích động, đánh bóng
vụng về của hai vị dân biểu Mỹ Gerry Connolly và Jim Moran! Bản “thành
tích bất hảo” của Nguyễn Đan Quế đã cho thấy rất rõ điều đó.”
Và xin trích dẫn thêm một đoạn khác trên báo công an thành phố: dưới tiêu đề: Đề Cử Nguyễn Đan Quế Giải Noble Hòa Bình 2012: Một Hành Động Chính Trị Sai Trái, nhà báo Hà Trình viết: “(CATP) Ngày
19-7-2012, đài VOA tiếng Việt loan tin hai dân biểu Mỹ Gerry Connolly
và Jim Moran, vừa gửi thư tới Chủ tịch Ủy ban giải Nobel Hòa Bình đề cử
ứng viên giải Nobel Hòa Bình 2012 cho Nguyễn Đan Quế, một kẻ chống đối
chính quyền đang sống ở TPHCM, mà báo chí phương Tây gán cho hỗn danh
“nhân vật bất đồng chính kiến” ở Việt Nam.
Theo
dân biểu Connolly, hơn 30 năm qua Nguyễn Đan Quế “tranh đấu không mệt
mỏi cho nhân quyền ở Việt Nam”. Ông Connolly xiên xẹo rằng, “tinh thần
cống hiến vì nhân quyền của Nguyễn Đan Quế là biểu hiện lý tưởng của
giải Nobel Hòa bình”. Dân biểu Moran thì lươn lẹo rằng “cảm thấy vinh dự
được đề cử Nguyễn Đan Quế”… Trước đó, tổ chức “Asia America Initiavete”
ở Mỹ, cũng phối hợp hành động đề cử Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Văn Lý,
Thích Quảng Độ làm ứng viên giải Nobel Hòa bình 2012.”
Thực tình
tôi không cảm thấy phẫn nộ khi đọc những bài viết này, mà chỉ thấy buồn,
thấy đau cho dân tộc Việt, bởi vẫn còn những kẻ văn nô, bồi bút như Kim Thanh Một hành động lố bịch, Hà Trình
là những tác giả của các bài báo này, chỉ biết cúi đầu, bẻ cong ngòi
bút để viết ra những gì đảng đã chỉ đạo, theo chủ trương đường lối của
bác và đảng đã vạch ra, chứ không được phép tư duy độc lập, không được
viết lách theo thực tế khách quan, như thế này thì chắc chắn là dân Việt
còn lầm than, còn tối tăm u mê dài lâu hơn nữa.
Trước hết,
xin được trở lại đôi nét chính với giải Nobel Hòa Bình hầu chúng ta có
thể thấy rỏ được khôi nguyên của giải Nobel Hòa bình phải thỏa mãn những
tiêu chí nào, qua đó đễ dễ dàng nhận thấy không chỉ cộng sản Việt Nam,
mà cả cộng sản Trung Quốc và các nước cộng sản khác cũng như các nước
theo chế độ độc tài quân phiệt cũng sẽ cực lực phản đối Ủy Ban Trao
Giải Nobel Hòa Bình, khi họ chọn, trao gải Nobel Hòa Bình cho một trong
những công dân của những nước theo thể chế cộng sản độc tài kể trên:
Huy Chương Nobel Hòa Bình |
Giải Nobel Hòa bình là một trong năm nhóm giải thưởng ban đầu của Giải Nobel. Theo nguyện vọng ghi trong di chúc của Alfred Nobel,
Giải Nobel hòa bình nên được trao “cho người đã có đóng góp to lớn
trong việc đẩy mạnh tình đoàn kết giữa các quốc gia, trong việc giải trừ
hoặc hạn chế các lực lượng vũ trang và trong việc tổ chức hay xúc tiến
các hội nghị hòa bình”. Có nhiều người cho rằng Nobel đã lập ra giải
thưởng này trong di chúc như một cách đền bù cho các chất nổ phát minh
của ông vốn được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh như dynamit hay ballistite. Thực tế thì ngoại trừ ballistite, không một loại chất nổ nào của Nobel được sử dụng trong chiến tranh khi ông còn sống.
Giải Nobel Hòa bình được trao hàng năm vào ngày 10 tháng 12, ngày mất của Alfred Nobel tại thủ đô Oslo của Na Uy. Trong khi phần lớn các giải Nobel khác được trao tại Thụy Điển và do một ủy ban của Thụy Điển quyết định, thì người hoặc tổ chức được xét trao giải Nobel Hòa bình sẽ được quyết định bởi Ủy ban Giải Nobel Na Uy do Quốc hội Na Uy lập ra. Chủ tịch hiện tại của ủy ban này, tiến sĩ Ole Danbolt Mjøs cũng
là một người từng được trao Giải Nobel Hòa bình. Sở dĩ có sự khác biệt
này là vì vào thời điểm Alfred Nobel viết di chúc, Thụy Điển và Na Uy
gần như là một liên bang trong đó Chính phủ Thụy Điển chịu trách nhiệm
lĩnh vực đối ngoại còn Quốc hội Na Uy chịu trách nhiệm lĩnh vực đối nội.
Alfred Nobel chưa bao giờ giải thích lý do tại sao ông lại chọn Na Uy
là nước chịu trách nhiệm xét giải Nobel Hòa bình chứ không phải Thụy
Điển, nhiều người cho rằng có lẽ Nobel muốn loại trừ việc các chính phủ
nước ngoài có thể thao túng Giải Nobel Hòa bình, vì vậy ông đã chọn Quốc
hội Na Uy, vốn không chịu trách nhiệm về quan hệ đối ngoại.
Hàng năm
Ủy ban Giải Nobel Na Uy tiếp nhận các đề cử cho Giải Nobel Hòa bình từ
các cá nhân đủ tiêu chuẩn, những người từng được nhận giải, thượng nghị
sĩ và hạ nghị sĩ, giáo sư đại học (của một số chuyên ngành nhất định),
các thẩm phán quốc tế và cuối cùng là các cố vấn đặc biệt của Ủy ban. Có
năm số lượng đề cử từ các nguồn này lên tới khoảng 199 cá nhân hoặc tổ
chức. Những cá nhân và tổ chức được đề cử cho Giải Nobel Hòa bình có thể
được biết về việc mình được đề cử, tuy nhiên điều này không được quy
ước cụ thể. Hiện nay dữ liệu về các đề cử cho Giải Nobel Hòa bình từ
năm 1901 đến năm 1951 đã được công khai. Nhờ đó người ta mới được biết rằng Adolf Hitler cũng từng được đề cử giải thưởng về hòa bình này năm 1939, trong số những người được đề cử còn có cả Benito Mussolini.
Giải Nobel
Hòa bình là hạng mục gây nhiều tranh cãi nhất trong hệ thống Giải
Nobel. Nhược điểm lớn nhất của việc xét trao Giải Nobel Hòa bình có lẽ
là việc đánh giá tiêu chuẩn của các ứng cử viên. Nếu như ở các giải
Nobel khác như Giải Nobel Văn học hay
các giải Nobel về khoa học, các ứng cử viên thường chỉ được xét giải
sau hai hoặc ba thập kỉ những đóng góp của họ ra đời, thì đóng góp của
các ứng cử viên cho Giải Nobel Hòa bình thường chỉ xét ngay trong năm đó
hoặc trong khoảng thời gian ngắn xung quanh thời gian xét giải, phụ
thuộc vào những diễn biến chính trị của đóng góp. Vì vậy đã có nhiều
trường hợp sau khi được trao Giải Nobel Hòa bình, cá nhân hoặc tổ chức
nhận giải lại tham gia vào việc phát động các cuộc chiến tranh hoặc chạy
đua vũ trang, đi ngược lại với tiêu chí giải thưởng. Đó là trường hợp
của Theodore Roosevelt, tổng thống Mỹ, được trao giải năm 1906, sau khi được trao giải đã mở rộng không ngừng lực lượng Hải quân Hoa Kỳ và dùng vũ lực đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy của người dân Philippines chống lại quân đội chiếm đóng Mỹ. Một trường hợp khác là Shimon Peres, được trao giải năm 1994, lại được coi là một trong những nhân vật “diều hâu” nhất của chính trường Israel và là người ủng hộ tích cực việc sử dụng vũ lực đàn áp người Palestine.
Ủy ban
Giải Nobel Na Uy còn bị chỉ trích vì đã bỏ qua nhiều nhân vật chính trị
nổi tiếng đã có những đóng góp lớn cho hòa bình thế giới, đó là Mahatma Gandhi, Steve Biko hay César Chávez.
Trong đó trường hợp của lãnh tụ Ấn Độ Gandhi đã gây tranh cãi không chỉ
trong dư luận mà còn trong chính nội bộ Ủy ban. Mặc dù đã được đề cử
rất nhiều lần vào các năm 1937, 1938, 1939, 1947 và chỉ vài tháng trước
khi ông bị ám sát năm 1948, Mahatma Gandhi đã không bao giờ được trao
giải. Ủy ban Giải Nobel sau này đã rất lấy làm tiếc vì sự bỏ qua này, và
khi Đăng-châu Gia-mục-thố được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1989, chủ tịch Ủy ban đã nói rằng một trong những lí do trao giải cho vị Đạt-lại Lạt-ma là để tưởng nhớ tới Mahatma Gandhi.
Khôi Nguyên Nobel Hòa Bình 1991 Aung San Suu Kyi |
Khôi Nguyên Hòa Bình 2010 Lưu Hiểu Ba |
Từ năm 1901 cho đến nay đã có 118 cá nhân và tổ chức
trên toàn thế giới đã từng được chọn trao giải, và gần đây nhất, bà
Aung San Suu Kyi, một nhà hoạt động nhân quyền dân chủ người Miến Điện
được chọn trao giải Nobel Hòa Bình vào năm 1991. Và gần đây nhất, vào
năm 2010 nhà hoạt động nhân quyền Lưu Hiểu Ba cũng được trao giải Nobel
Hòa bình, mà theo thông tin từ Oslo, tại lễ trao giải trong ngày thứ Sáu
ngày 10 tháng 12 năm 2010, có 19 quốc gia không tham dự, trên tổng số
194 các quốc gia toàn thế giới, là: Trung Quốc, Nga, Kazakhstan,
Colombia, Tunisia, Ả Rập Saudi, Pakistan, Serbia, Iraq, Iran, Việt Nam,
Afghanistan, Venezuela, Philippines, Ai Cập, Sudan, Ukraine, Cuba và
Morocco. Trong buổi lễ trao giải sáng 10/12/2010 tại Oslo, do ông Lưu
Hiểu Ba vẫn bị giam và thân nhân của ông bị quản thúc hoặc công an giám
sát nên ban tổ chức đã chọn một động thái biểu tượng. Trước chiếc ghế
trống, chủ tịch ủy ban Nobel Thorbjoern Jagland nhắc lại rằng: “Ông Lưu
Hiểu Ba không làm điều gì sai trái. Ông chỉ hành xử quyền công dân của
mình mà thôi”. Chủ tịch Ủy ban kêu gọi Trung Quốc trả tự do cho khôi
nguyên Nobel hòa bình 2010 và đặt bằng chứng nhận và huy chương Nobel
Hòa bình lên chiếc ghế để trống.
Chủ tịch
Ủy ban Nobel, ông Jagland nhấn mạnh giải thưởng không phải là hành động
chống Trung Quốc. “Giải thưởng này ca ngợi người dân Trung Quốc,” “Đây
không phải là hành động phản đối, đây là tín hiệu cho Trung Quốc thấy
rằng trong tương lai, phát triển kinh tế cần đi đôi với cải tổ chính
trị, hậu thuẫn những người tranh đấu cho nhân quyền.”
“Giải thưởng Nobel Hòa bình thuộc về giá trị nhân quyền phổ quát, không phải là tiêu chuẩn của Tây phương.”
Ông Jagland nói tất cả thành viên của LHQ đều ký tên vào Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế, và họ phải có “nghĩa vụ tôn trọng tài liệu này.”
Ông nói
ghế dành cho ông Liu tại buổi lễ trao giải sẽ không có người ngồi, đó
chính là biểu tượng cho thấy “giải thưởng này cần thiết đến mức nào.”
Xét về tôn
chỉ và mục đích hành động của bác Sỹ Nguyễn Đan Quế thì cũng hoàn toàn
giống với tôn chỉ và mục đích của bà Aung San Suu Kyi và của ông Lưu
Hiểu Ba, nghĩa là “Bác Sỹ Nguyễn Đan Quế cũng không làm điều gì sai
trái. Ông chỉ hành xử quyền công dân của mình mà thôi”. Cho nên nhà cầm
quyền CSVN và các nhà báo bồi bút Việt Nam cũng phải hiểu được rằng
“giải thưởng không phải là hành động chống Việt Nam. “Giải thưởng này ca
ngợi người dân Việt Nam,” “Đây không phải là hành động phản đối, đây là
tín hiệu cho Việt Nam thấy rằng trong tương lai, phát triển kinh tế cần
đi đôi với cải tổ chính trị, hậu thuẫn những người tranh đấu cho nhân
quyền.”. Do vậy, thay vì chỉ trích, đảng và nhà nước CSVN, các báo chí
lề đảng phải bày tỏ lòng biết ơn đối với hai dân biểu Mỹ Gerry Connolly
và Jim Moran bởi họ đã đề cử bác Sỹ Nguyễn Đan Quế, một người Việt Nam
cho giải Nobel Hòa Bình năm 2012 chính là một hành động tôn vinh người
Việt Nam vậy.
Còn nhớ
vào năm 1973, Lê Đức Thọ đã được đề cử giải Nobel Hòa bình bởi ông là
đồng tác giả của Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa
bình tại Việt Nam, nhưng thực sự nên hòa bình ở Việt Nam có được tái lập
không? Hiệp Định Paris có được CS Bắc Việt nghiêm chỉnh thi hành
không?Hay chính Lê Đức Thọ với vai trò của một Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam,
ông đã chỉ huy bộ đội Bắc Việt đánh chiếm Miền nam, gây ra cái chết của
hàng triệu dân lành, cũng như hàng trăm ngàn thanh niên của cả hai miền
Nam-Bắc, đó là chưa kể đến giai đoạn cải cách ruộng đất, cùng với
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh, Lê ĐứcThọ cũng là thủ phạm
chính của các cuộc đấu tố địa chủ gây ra cái chết oan khuất của 300.000
nông dân bắc bộ. Vậy, chúng tôi xin đặt vấn đề để quý độc giả so sánh
Bác Sỹ Nguyễn Đan Quế và Lê Đức Thọ để xem ai là tội đồ của dân tộc bán
nước hại dân, và ai xứng đáng được để cử giải Nobel Hòa Bình?
Nhiều
người giữ thái độ im lặng trước cách hành xử của nhà cầm quyền CSVN cũng
như trước luận điệu xuyệ tạc, bôi nhọ của các nhà báo quốc doanh, bồi
bút của Việt Nam, chỉ đơn giản là vì họ nghĩ rằng tranh cãi với những
văn nô, bồi bút chi bằng tranh cải với chính cái đầu gối của mình. Riêng
tôi, xin một lần được phản biện, cũng xuất phát tinh thần dân tộc, bởi
tôi nghĩ rằng sự u mê tăm tối của một người, một nhóm người, không phải
không ảnh hưởng sự phát triển chung của cả giống nòi Lạc Việt.
Ngày 21 tháng 9 năm 2012
Nguyễn Thu Trâm
Nguyễn Thu Trâm