Chiều đi làm về, ngồi trên xe bus, lơ mơ ngủ tự nhiên lan man nghĩ, không biết sao VN lại có từ "cha già dân tộc", có lẽ mấy cái tin báo nào là xây những nơi thờ tự cha mẹ, tổ tiên của những thành lập ra đảng CSVN, không biết ngân sách ấy ở đâu ra, do đảng viên của đảng đóng góp khiến cho tôi nghĩ lan man? Nếu thế thì quả thật đảng CSVN thặng dư ngân quĩ, chỉ thắc mắc sao không dùng số tiền ấy để xây trường, xây đường, xây cầu cho trẻ em, cho dân? Đó chẳng là mục tiêu của đảng CS là lo cho dân hay sao? Mục tiêu của đảng có mục nào trong cương lĩnh là vào đảng, sau này khi chết sẽ được xây lăng, cha mẹ dòng họ sẽ được cất đất để làm nơi thờ tự cho toàn dân tới cúng kiến không nhỉ? Tôi chưa thấy ở đâu trên thế giới, những nước không cộng sản lại có vụ xây cho đảng viên của họ như ở mấy nước cộng sản, chỉ khi nào đảng nào cầm quyền có người lên làm tổng thống, thì khi về hưu, có một ngân sách hỗ trợ mà phần lớn do đảng họ hay những người ủng hộ đóng góp xây cho cái thư viện để tưởng nhớ vị tổng thống khi họ qua đời. Thế thôi không có lăng tẩm gì cả. Ông có làm lãnh đạo làm tổng thống cũng là việc công, dân trả lương cho ông, ông chả là cha mẹ của ai cả. Chỉ có CS mới làm mấy chuyện xem ra chả có bình đẳng chút nào.
Nghĩ lại đất nước VN từ ngàn năm có lúc loạn lạc, cũng có lúc thái bình do tài trị quôc của từng triều đại. Nhưng sử sách cũng không ai gọi vua Hùng là cha già của cả dân tộc VN, cho tới vua Quang Trung đánh đuổi ngoại xâm cũng không gọi ông là cha già. Chả hiểu sao tự nhiên ở cái thời đại văn minh hơn thì người ta lại đâm ra ngớ ngẩn hơn. Tự nhiên phát sinh ra cái từ "cha già dân tộc" nghe rất là kỳ cục. Không lẽ mấy ông trí thức thời ấy đồng thời, đồng tuổi, đồng hội, đồng thuyền với ông "cha già" ấy cũng ngớ ngẩn gọi như thế, rồi mấy ổng gọi cha mẹ mấy ông ra làm sao. Sao tự nhiên gọi như thế rồi áp đặt cho toàn thể dân tộc. Phải học như người tây phương, ai thì ai, anh có giỏi, gọi anh bằng ông (sir) là hết cỡ rồi. Đôi khi, họ còn không muốn mình gọi họ như thế, nghe rất là già nên họ không thích. Do đó nhà báo Ngô Nhân Dụng viết về vua Lê Thái Tổ, ông theo lối của người tây phương, bình đẳng, gọi vậy thôi. Chứ nếu gọi theo cách gọi VN thì chắc cũng phải gọi "cha già" hay có khi phải gọi "ông cố dân tộc" luôn ấy chứ.
Nghĩ lại đất nước VN từ ngàn năm có lúc loạn lạc, cũng có lúc thái bình do tài trị quôc của từng triều đại. Nhưng sử sách cũng không ai gọi vua Hùng là cha già của cả dân tộc VN, cho tới vua Quang Trung đánh đuổi ngoại xâm cũng không gọi ông là cha già. Chả hiểu sao tự nhiên ở cái thời đại văn minh hơn thì người ta lại đâm ra ngớ ngẩn hơn. Tự nhiên phát sinh ra cái từ "cha già dân tộc" nghe rất là kỳ cục. Không lẽ mấy ông trí thức thời ấy đồng thời, đồng tuổi, đồng hội, đồng thuyền với ông "cha già" ấy cũng ngớ ngẩn gọi như thế, rồi mấy ổng gọi cha mẹ mấy ông ra làm sao. Sao tự nhiên gọi như thế rồi áp đặt cho toàn thể dân tộc. Phải học như người tây phương, ai thì ai, anh có giỏi, gọi anh bằng ông (sir) là hết cỡ rồi. Đôi khi, họ còn không muốn mình gọi họ như thế, nghe rất là già nên họ không thích. Do đó nhà báo Ngô Nhân Dụng viết về vua Lê Thái Tổ, ông theo lối của người tây phương, bình đẳng, gọi vậy thôi. Chứ nếu gọi theo cách gọi VN thì chắc cũng phải gọi "cha già" hay có khi phải gọi "ông cố dân tộc" luôn ấy chứ.
Công ơn Lê Thái Tổ
Ngô Nhân Dụng
Một vị giáo sư dậy Việt ngữ báo
tin sẽ cho các em học sinh lớp lớn học bài Bình Ngô Ðại Cáo; một phản
ứng rất khích lệ. Ông cũng cho biết bài trước trong mục này đã viết nhầm
câu “Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn” thành ra “Ðem đạo nghĩa...”
Người Việt Online đã sửa lại, nay xin đính chính với quý vị độc giả báo in. Chữ “Ðại” mới đối với chữ “Chí” trong câu sau:Lấy
chí nhân mà thay cường bạo. Ai có học văn chương cổ điển đều biết chữ
Ðạo không thể dùng đối với chữ Chí. Chép sai như vậy thật là có tội với
tác giả và dịch giả.
Ðể các bạn trẻ thời nay thông cảm với bài văn Nguyễn Trãi viết năm
1427, cần giải thích cho các em biết bối cảnh lịch sử đưa tới bản tuyên
ngôn độc lập thứ nhì của dân tộc Việt Nam - bản tuyên ngôn trước đó, còn
giữ lại được, là bốn câu thơ của Lý Thường Kiệt, ông nói đã được Thần
sông Như Nguyệt đọc cho nghe.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh thành công năm 1428 là một bước
quyết định trong lịch sử dân Việt Nam. Nếu dân Việt không đuổi được quân
Minh thì không biết bây giờ còn nước Việt Nam hay không. Dân Việt vẫn
tồn tại sau khi trải qua hơn một ngàn năm bị người Trung Hoa đô hộ, kể
từ năm 179 khi Triệu Ðà chiếm nước Âu Lạc, cho tới năm 939, khi Ngô
Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng. Trong thời gian hơn mười
thế kỷ đó, các chính quyền bên Trung Quốc đã cố ý đồng hóa biến dân Việt
thành người Trung Hoa, giữ nguyên miền đất họ đặt tên là Giao Chỉ, Giao
Châu nằm trong đế quốc nhà Hán, nhà Ðường.
Lần sau cùng một triều đình Trung Quốc chiếm nước ta với ý định thi
hành một chính sách đồng hóa khắc nghiệt, áp dụng từ trên xuống dưới, là
Minh Thành Tổ (làm vua từ 1403 đến 1424). Ông ta sai hai tướng Trương
Phụ và Mộc Thạnh cầm quân đánh nước ta vào năm 1406. Tháng Sáu năm sau,
họ đổi nước Ðại Việt thành quận Giao Chỉ thuộc đế quốc Ðại Minh.
Ðể cho dân Việt hết nhân tài, nhà Minh bắt đem về Trung Quốc những
người nào thông minh, học giỏi, viết chữ đẹp, làm tính giỏi, nói năng
hoạt bát, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh, giỏi nghề đi biển, làm gạch,
làm hương, vân vân, đưa về Trung Quốc. Ðây là một hình thức cưỡng bách
“xuất não” (brain drain) hiếm có trong lịch sử các đế quốc.
Muốn rửa sạch đầu óc dân tộc Việt để họ biến thành người Trung Hoa,
vua nhà Minh bắt người Giao Chỉ phải thay đổi phong tục. Phụ nữ phải mặc
áo ngắn quần dài như người Minh, không được mặc váy là y phục cổ truyền
của người Việt và dân miền Ðông Nam Á. Người Minh còn cấm người Việt
không được ăn trầu, một thói quen cũng của dân vùng Ðông Nam Á. Chúng ta
biết đến thế kỷ 20 phụ nữ Việt Nam vẫn mặc váy, nhuộm răng đen, ăn
trầu. Nhưng tàn bạo nhất là chủ trương hủy hoại tất cả các di sản văn
hóa của dân Ðại Việt. Minh Thành Tổ viết thư ngày 21 Tháng Tám 1406 ra
lệnh Trương Phụ: “Trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì
không tiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở, văn tự cho đến cả những
loại ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ... một mảnh chữ đều phải đốt hết.
Khắp trong nước phàm những bia đá do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì
đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một
chữ chớ để còn.” Vua nhà Minh còn gửi một văn thư thứ nhì, khiển trách
các tướng là không giữ đúng lệnh bắt quân sĩ phải “đốt ngay tại chỗ” vì
vẫn thấy có đứa tịch thu sách đem về nộp! Ngày nay chúng ta gọi hành
động này là “diệt chủng văn hóa”.
Sử gia Ngô Sĩ Liên, trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1479, viết
về tai họa đốt sách: “...sách vở cả nước thành đống tro tàn.” Lê Quý Ðôn
(1726-1784) kể lại rằng sau khi đuổi được quân Minh, “các bậc danh Nho
như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên cùng nhau sưu tầm các sách vở
giấy tờ, nhặt nhạnh từng tờ giấy còn sót lại; ... mười phần chỉ còn bốn
năm phần.”
Minh Thành Tổ làm vua trong một giai đoạn thịnh trị nhất của Trung
Quốc. Trước đây 600 năm, họ đã tổ chức những cuộc hành trình của Ðô Ðốc
Trịnh Hòa (1371-1433) thường đi hơn 50, 60 chiếc tàu, chở theo hơn 27
ngàn người; họ đi vòng quanh Ðông Nam Châu Á, ghé Ấn Ðộ, bán đảo Á Rập,
qua tận Phi Châu, tới đâu tặng quà và mua các sản phẩm mới lạ đem về. Ði
như thế tất cả bảy chuyến trong 30 năm, cho thấy sức mạnh kinh tế và
quân sự của họ như thế nào. Nếu dân Việt tiếp tục bị quân Minh họ đô hộ,
cho tới lúc nhà Minh bị người Mãn Thanh lật đổ vào thế kỷ 17, thì không
biết bây giờ còn nước Việt Nam, còn dân tộc Việt Nam hay không?
Kể từ lúc quân nhà Ðường, nhà Hậu Lương, Nam Hán phải rút khỏi bờ cõi
nước ta, cho tới đời nhà Minh đã cách nhau năm thế kỷ. Vậy mà một ông
hoàng đế Trung Hoa vẫn chưa bỏ qua tham vọng quay trở lại, chiếm đóng
nước ta vĩnh viễn. Lại có kế hoạch đào hết gốc rễ, xóa bỏ hết văn hóa
dân Việt, nhắm mục đích đồng hóa tất cả! Năm thế kỷ tưởng là dài, nhưng
vẫn không làm cho các hoàng đế Trung Hoa quên giấc mộng làm chúa tể cả
thiên hạ, tức là tất cả các thứ nằm dưới bầu trời! Cho nên không trách
từ đó tới nay, người Việt biết mình cứ phải luôn luôn đề phòng một ông
Minh Thành Tổ thứ hai hay thứ ba lại làm chúa tể ở Bắc Kinh! Sáu trăm
năm vừa qua đã có bao nhiêu người cầm đầu Trung Quốc lại ôm giấc mộng
Minh Thành Tổ? Thời 1940 nhà cách mạng Lý Ðông A đã đọc tài liệu nội bộ
trong giới sĩ quan Quốc Dân Ðảng Trung Hoa đề cập đến mưu đồ biến Việt
Nam thành một vùng của Trung Quốc. Thời nay vẫn có những người viết mạng
bày kế hoạch chiếm Việt Nam lần nữa!
Mối lo ngại của người Việt có lý do thực tế. Vì các chính quyền Trung
Quốc đã xâm chiếm và đồng hóa các sắc dân khác chung quanh nước họ từ
lâu rồi. Trước khi xâm lăng các nước ở phía Nam, lãnh thổ của nhà Tần
chỉ bằng một phần tư đến một phần ba diện tích Trung Quốc bây giờ; chính
sử gia Triệu Ðinh Dương ở Bắc Kinh xác nhận như vậy. Sau đó, người Hoa
đã xâm chiếm và đồng hóa tất cả các sắc tộc ở phía Nam, phía Tây. Các
dân tộc Tây Tạng, Uighur, Mông Cổ đã bị cưỡng bách sát nhập nước Tàu.
Ðến bây giờ Bắc Kinh còn vu cáo Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là một người cầm đầu
một “phong trào Tây Tạng ly khai” tách khỏi Trung Quốc. Tây Tạng vốn là
một quốc gia cổ với một nền văn hóa lâu đời khác hẳn người Hán, đã xung
đột và ký hiệp ước phân định biên giới với vua nhà Ðường vào thế kỷ thứ
tám, vua hai nước nhận làm anh em. Họ chỉ bị nhà Mãn Thanh chiếm đóng từ
thế kỷ 17; nhưng đến thế kỷ 20 lại tuyên bố độc lập! Nói người Tây Tạng
đòi ly khai thì cũng giống như người Trung Hoa nói Việt Nam cũng là một
phần của Trung Quốc; mới “ly khai” từ thế kỷ thứ 10! Nếu không sớm ly
khai, thì bây giờ Việt Nam còn là một tỉnh; hoặc thấp hơn, chỉ là một
huyện trong tỉnh Quảng Ðông hoặc Hải Nam, có thể nằm chung trong huyện
Tam Sa vậy!
Tất nhiên, chúng ta tin rằng nếu cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi thất bại
sau 10 năm đánh giặc thì sau đó chắc chắn còn những ông họ Lê, họ
Nguyễn, họ Trần... khác theo nhau lãnh đạo dân nổi dậy giành độc lập.
Bởi vì dân Việt đã sống dưới các triều đại trước của Trung Quốc trong
hơn mười thế kỷ mà vẫn không bị đồng hóa, thì không lý nào sau khi đã
quen sống độc lập năm thế kỷ người mình lại yếu hèn hơn, nhu nhược hơn
mà chịu ách đô hộ mãi mãi. Nhưng công đức Vua Lê vẫn lớn lao không thể
nào quên được.
Nhờ cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi giành lại quyền tự chủ sau 10 năm
chiến đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát nạn đồng hóa, không biến thành một
tỉnh của Trung Quốc. Cho nên ngày kỷ niệm Lê Thái Tổ phải tổ chức như
một ngày hội lớn, mở hội ăn mừng dân tộc tái sinh! Trong dịp này, mọi
người cùng nhau đọc lại bài Bình Ngô Ðại Cáo, vừa để tỏ lòng biết ơn tổ
tiên, vừa ôn lại lịch sử dân tộc và nuôi lòng yêu nước trong giới thanh
niên. Lòng yêu nước là một tình cảm tự nhiên, không ai cần phải đi xin
cấp giấy phép yêu nước bao giờ! Bao giờ thanh niên nước ta biết như vậy,
muốn được thể hiện lòng yêu nước một cách nhiệt thành, lúc đó tương lai
mới sáng sủa!