Thứ Ba, 11 tháng 9, 2012

Một cái từ

Chiều đi làm về, ngồi trên xe bus, lơ mơ ngủ tự nhiên lan man nghĩ, không biết sao VN lại có từ "cha già dân tộc", có lẽ mấy cái tin báo nào là xây những nơi thờ tự cha mẹ, tổ tiên của những thành lập ra đảng CSVN, không biết ngân sách ấy ở đâu ra, do đảng viên của đảng đóng góp khiến cho tôi nghĩ lan man? Nếu thế thì quả thật đảng CSVN thặng dư ngân quĩ, chỉ thắc mắc sao không dùng số tiền ấy để xây trường, xây đường, xây cầu cho trẻ em, cho dân? Đó chẳng là mục tiêu của đảng CS là lo cho dân hay sao? Mục tiêu của đảng có mục nào trong cương lĩnh là vào đảng, sau này khi chết sẽ được xây lăng, cha mẹ dòng họ sẽ được cất đất để làm nơi thờ tự cho toàn dân tới cúng kiến không nhỉ? Tôi chưa thấy ở đâu trên thế giới, những nước không cộng sản lại có vụ xây cho đảng viên của họ như ở mấy nước cộng sản, chỉ khi nào đảng nào cầm quyền có người lên làm tổng thống, thì khi về hưu, có một ngân sách hỗ trợ mà phần lớn do đảng họ hay những người ủng hộ đóng góp xây cho cái thư viện để tưởng nhớ vị tổng thống khi họ qua đời. Thế thôi không có lăng tẩm gì cả.  Ông có làm lãnh đạo làm tổng thống cũng là việc công, dân trả lương cho ông, ông chả là cha mẹ của ai cả. Chỉ có CS mới làm mấy chuyện xem ra chả có bình đẳng chút nào.

Nghĩ lại đất nước VN từ ngàn năm có lúc loạn lạc, cũng có lúc thái bình do tài trị quôc của từng triều đại. Nhưng sử sách cũng không ai gọi vua Hùng là cha già của cả dân tộc VN, cho tới vua Quang Trung đánh đuổi ngoại xâm cũng không gọi ông là cha già.  Chả hiểu sao tự nhiên ở cái thời đại văn minh hơn thì người ta lại đâm ra ngớ ngẩn hơn.  Tự nhiên phát sinh ra cái từ "cha già dân tộc" nghe rất là kỳ cục.  Không lẽ mấy ông trí thức thời ấy đồng thời, đồng tuổi, đồng hội, đồng thuyền với ông "cha già" ấy cũng ngớ ngẩn gọi như thế, rồi mấy ổng gọi cha mẹ mấy ông ra làm sao.  Sao tự nhiên gọi như thế rồi áp đặt cho toàn thể dân tộc.  Phải học như người tây phương, ai thì ai, anh có giỏi, gọi anh bằng ông (sir) là hết cỡ rồi.  Đôi khi, họ còn không muốn mình gọi họ như thế, nghe rất là già nên họ không thích.  Do đó nhà báo Ngô Nhân Dụng viết về vua Lê Thái Tổ, ông theo lối của người tây phương, bình đẳng, gọi vậy thôi.  Chứ nếu gọi theo cách gọi VN thì chắc cũng phải gọi "cha già" hay có khi phải gọi "ông cố dân tộc" luôn ấy chứ.  



Công ơn Lê Thái Tổ

Ngô Nhân Dụng

Một vị giáo sư dậy Việt ngữ báo tin sẽ cho các em học sinh lớp lớn học bài Bình Ngô Ðại Cáo; một phản ứng rất khích lệ. Ông cũng cho biết bài trước trong mục này đã viết nhầm câu “Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn” thành ra “Ðem đạo nghĩa...”
Người Việt Online đã sửa lại, nay xin đính chính với quý vị độc giả báo in. Chữ “Ðại” mới đối với chữ “Chí” trong câu sau:Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Ai có học văn chương cổ điển đều biết chữ Ðạo không thể dùng đối với chữ Chí. Chép sai như vậy thật là có tội với tác giả và dịch giả.
Ðể các bạn trẻ thời nay thông cảm với bài văn Nguyễn Trãi viết năm 1427, cần giải thích cho các em biết bối cảnh lịch sử đưa tới bản tuyên ngôn độc lập thứ nhì của dân tộc Việt Nam - bản tuyên ngôn trước đó, còn giữ lại được, là bốn câu thơ của Lý Thường Kiệt, ông nói đã được Thần sông Như Nguyệt đọc cho nghe.
Cuộc kháng chiến chống quân Minh thành công năm 1428 là một bước quyết định trong lịch sử dân Việt Nam. Nếu dân Việt không đuổi được quân Minh thì không biết bây giờ còn nước Việt Nam hay không. Dân Việt vẫn tồn tại sau khi trải qua hơn một ngàn năm bị người Trung Hoa đô hộ, kể từ năm 179 khi Triệu Ðà chiếm nước Âu Lạc, cho tới năm 939, khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Ðằng. Trong thời gian hơn mười thế kỷ đó, các chính quyền bên Trung Quốc đã cố ý đồng hóa biến dân Việt thành người Trung Hoa, giữ nguyên miền đất họ đặt tên là Giao Chỉ, Giao Châu nằm trong đế quốc nhà Hán, nhà Ðường.
Lần sau cùng một triều đình Trung Quốc chiếm nước ta với ý định thi hành một chính sách đồng hóa khắc nghiệt, áp dụng từ trên xuống dưới, là Minh Thành Tổ (làm vua từ 1403 đến 1424). Ông ta sai hai tướng Trương Phụ và Mộc Thạnh cầm quân đánh nước ta vào năm 1406. Tháng Sáu năm sau, họ đổi nước Ðại Việt thành quận Giao Chỉ thuộc đế quốc Ðại Minh.
Ðể cho dân Việt hết nhân tài, nhà Minh bắt đem về Trung Quốc những người nào thông minh, học giỏi, viết chữ đẹp, làm tính giỏi, nói năng hoạt bát, tướng mạo khôi ngô, khỏe mạnh, giỏi nghề đi biển, làm gạch, làm hương, vân vân, đưa về Trung Quốc. Ðây là một hình thức cưỡng bách “xuất não” (brain drain) hiếm có trong lịch sử các đế quốc.
Muốn rửa sạch đầu óc dân tộc Việt để họ biến thành người Trung Hoa, vua nhà Minh bắt người Giao Chỉ phải thay đổi phong tục. Phụ nữ phải mặc áo ngắn quần dài như người Minh, không được mặc váy là y phục cổ truyền của người Việt và dân miền Ðông Nam Á. Người Minh còn cấm người Việt không được ăn trầu, một thói quen cũng của dân vùng Ðông Nam Á. Chúng ta biết đến thế kỷ 20 phụ nữ Việt Nam vẫn mặc váy, nhuộm răng đen, ăn trầu. Nhưng tàn bạo nhất là chủ trương hủy hoại tất cả các di sản văn hóa của dân Ðại Việt. Minh Thành Tổ viết thư ngày 21 Tháng Tám 1406 ra lệnh Trương Phụ: “Trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không tiêu hủy, ngoài ra hết thảy mọi sách vở, văn tự cho đến cả những loại ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ... một mảnh chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia đá do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ chớ để còn.” Vua nhà Minh còn gửi một văn thư thứ nhì, khiển trách các tướng là không giữ đúng lệnh bắt quân sĩ phải “đốt ngay tại chỗ” vì vẫn thấy có đứa tịch thu sách đem về nộp! Ngày nay chúng ta gọi hành động này là “diệt chủng văn hóa”.
Sử gia Ngô Sĩ Liên, trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1479, viết về tai họa đốt sách: “...sách vở cả nước thành đống tro tàn.” Lê Quý Ðôn (1726-1784) kể lại rằng sau khi đuổi được quân Minh, “các bậc danh Nho như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên cùng nhau sưu tầm các sách vở giấy tờ, nhặt nhạnh từng tờ giấy còn sót lại; ... mười phần chỉ còn bốn năm phần.”
Minh Thành Tổ làm vua trong một giai đoạn thịnh trị nhất của Trung Quốc. Trước đây 600 năm, họ đã tổ chức những cuộc hành trình của Ðô Ðốc Trịnh Hòa (1371-1433) thường đi hơn 50, 60 chiếc tàu, chở theo hơn 27 ngàn người; họ đi vòng quanh Ðông Nam Châu Á, ghé Ấn Ðộ, bán đảo Á Rập, qua tận Phi Châu, tới đâu tặng quà và mua các sản phẩm mới lạ đem về. Ði như thế tất cả bảy chuyến trong 30 năm, cho thấy sức mạnh kinh tế và quân sự của họ như thế nào. Nếu dân Việt tiếp tục bị quân Minh họ đô hộ, cho tới lúc nhà Minh bị người Mãn Thanh lật đổ vào thế kỷ 17, thì không biết bây giờ còn nước Việt Nam, còn dân tộc Việt Nam hay không?
Kể từ lúc quân nhà Ðường, nhà Hậu Lương, Nam Hán phải rút khỏi bờ cõi nước ta, cho tới đời nhà Minh đã cách nhau năm thế kỷ. Vậy mà một ông hoàng đế Trung Hoa vẫn chưa bỏ qua tham vọng quay trở lại, chiếm đóng nước ta vĩnh viễn. Lại có kế hoạch đào hết gốc rễ, xóa bỏ hết văn hóa dân Việt, nhắm mục đích đồng hóa tất cả! Năm thế kỷ tưởng là dài, nhưng vẫn không làm cho các hoàng đế Trung Hoa quên giấc mộng làm chúa tể cả thiên hạ, tức là tất cả các thứ nằm dưới bầu trời! Cho nên không trách từ đó tới nay, người Việt biết mình cứ phải luôn luôn đề phòng một ông Minh Thành Tổ thứ hai hay thứ ba lại làm chúa tể ở Bắc Kinh! Sáu trăm năm vừa qua đã có bao nhiêu người cầm đầu Trung Quốc lại ôm giấc mộng Minh Thành Tổ? Thời 1940 nhà cách mạng Lý Ðông A đã đọc tài liệu nội bộ trong giới sĩ quan Quốc Dân Ðảng Trung Hoa đề cập đến mưu đồ biến Việt Nam thành một vùng của Trung Quốc. Thời nay vẫn có những người viết mạng bày kế hoạch chiếm Việt Nam lần nữa!
Mối lo ngại của người Việt có lý do thực tế. Vì các chính quyền Trung Quốc đã xâm chiếm và đồng hóa các sắc dân khác chung quanh nước họ từ lâu rồi. Trước khi xâm lăng các nước ở phía Nam, lãnh thổ của nhà Tần chỉ bằng một phần tư đến một phần ba diện tích Trung Quốc bây giờ; chính sử gia Triệu Ðinh Dương ở Bắc Kinh xác nhận như vậy. Sau đó, người Hoa đã xâm chiếm và đồng hóa tất cả các sắc tộc ở phía Nam, phía Tây. Các dân tộc Tây Tạng, Uighur, Mông Cổ đã bị cưỡng bách sát nhập nước Tàu. Ðến bây giờ Bắc Kinh còn vu cáo Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là một người cầm đầu một “phong trào Tây Tạng ly khai” tách khỏi Trung Quốc. Tây Tạng vốn là một quốc gia cổ với một nền văn hóa lâu đời khác hẳn người Hán, đã xung đột và ký hiệp ước phân định biên giới với vua nhà Ðường vào thế kỷ thứ tám, vua hai nước nhận làm anh em. Họ chỉ bị nhà Mãn Thanh chiếm đóng từ thế kỷ 17; nhưng đến thế kỷ 20 lại tuyên bố độc lập! Nói người Tây Tạng đòi ly khai thì cũng giống như người Trung Hoa nói Việt Nam cũng là một phần của Trung Quốc; mới “ly khai” từ thế kỷ thứ 10! Nếu không sớm ly khai, thì bây giờ Việt Nam còn là một tỉnh; hoặc thấp hơn, chỉ là một huyện trong tỉnh Quảng Ðông hoặc Hải Nam, có thể nằm chung trong huyện Tam Sa vậy!
Tất nhiên, chúng ta tin rằng nếu cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi thất bại sau 10 năm đánh giặc thì sau đó chắc chắn còn những ông họ Lê, họ Nguyễn, họ Trần... khác theo nhau lãnh đạo dân nổi dậy giành độc lập. Bởi vì dân Việt đã sống dưới các triều đại trước của Trung Quốc trong hơn mười thế kỷ mà vẫn không bị đồng hóa, thì không lý nào sau khi đã quen sống độc lập năm thế kỷ người mình lại yếu hèn hơn, nhu nhược hơn mà chịu ách đô hộ mãi mãi. Nhưng công đức Vua Lê vẫn lớn lao không thể nào quên được.
Nhờ cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi giành lại quyền tự chủ sau 10 năm chiến đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát nạn đồng hóa, không biến thành một tỉnh của Trung Quốc. Cho nên ngày kỷ niệm Lê Thái Tổ phải tổ chức như một ngày hội lớn, mở hội ăn mừng dân tộc tái sinh! Trong dịp này, mọi người cùng nhau đọc lại bài Bình Ngô Ðại Cáo, vừa để tỏ lòng biết ơn tổ tiên, vừa ôn lại lịch sử dân tộc và nuôi lòng yêu nước trong giới thanh niên. Lòng yêu nước là một tình cảm tự nhiên, không ai cần phải đi xin cấp giấy phép yêu nước bao giờ! Bao giờ thanh niên nước ta biết như vậy, muốn được thể hiện lòng yêu nước một cách nhiệt thành, lúc đó tương lai mới sáng sủa!

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"