Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

Thưa chuyện với công cụ bạo lực chuyên chính vô sản (2)

Phạm Đình Trọng

4. ĐỪNG VIẾT NỮA!

Ông quận phó công an Tân Bình Nguyễn Thành Tâm gặp tôi bằng được, tưởng rằng tôi sẽ được nghe ông Tâm nói. Hóa ra tôi lại là người nói nhiều hơn cả. Hơn lúc nào hết, lúc này đảng Cộng sản Việt Nam càng phải huy động tối đa hai công cụ chuyên chính vô sản, công cụ tư tưởng và công cụ bạo lực, tuyên giáo và công an. Nghiệp vụ của tuyên giáo là nói. Nói xưng xưng! Nói lấy được! Nói như ông Đinh Thế Huynh khi sắp bước vào bộ Chính trị: Nhân dân Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên, đa đảng và dứt khoát không đa nguyên, đa đảng là nói lấy được! Nói theo mong muốn của đảng đang độc quyền thống trị chứ không nói theo đòi hỏi của cuộc sống, không nói theo tất yếu của lịch sử! Nghiệp vụ của công an là hỏi, là khai thác, lấy cung! Dù ông Tâm hẹn gặp tôi ở quán giải khát thì vẫn là cuộc gặp của nghiệp vụ công an, vẫn là những câu hỏi và vẫn có người đi cùng ông Tâm làm nghiệp vụ kĩ thuật công an!

Có câu hỏi của ông Tâm tôi chỉ cần nói ngắn gọn như khi ông Tâm hỏi về bài viết gần đây nhất của tôi. Tôi nói rằng đó là bài Thưa Ông Bộ Trưởng đăng trên nhiều trang mạng khoảng giữa tháng mười một, năm 2010, tôi viết phản bác ý kiến của ông Bộ trưởng bộ Tài nguyên Môi trường Phạm Khôi Nguyên nói trước Quốc hội bộc lộ kiến thức văn hóa xã hội trống hụt quá lớn lại hàm hồ, hung hăng nói lấy được, quen thói cả vú lấp miệng em của người có quyền! Tuyệt đối tin tưởng vào Chính phủ, vào cấp trên, ông Tâm bảo tôi: Làm Bộ trưởng là phải có kiến thức cao, hiểu biết rộng, làm sao anh phản bác được? Dựa vào đâu anh phản bác? Tôi nghĩ thầm: Trời ơi, các ông Bộ trưởng nhà ta mà có kiến thức cao, hiểu biết rộng thì dân mình đã không khốn khổ như thế này. Nhưng tôi cố nén không nói ra điều đó. Tôi bảo ông Tâm: Tôi có một tủ sách đủ tra cứu những vần đề tôi quan tâm. Riêng với ý kiến ông Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên, chỉ cần những kiến thức thường trực có sẵn trong tôi, đủ để tôi phản bác mà ông Bộ trưởng không nói lại được!
Còn những vấn đề khác ông Tâm nêu ra đã gợi cho tôi rất nhiều điều muốn trao đổi với ông Tâm. Dù người nói chủ yếu là tôi nhưng lúc ngồi với ông Tâm tôi vẫn chưa nói được rõ, chưa nói được đủ ý. Khi ông Tâm bảo tôi rằng: Thôi đừng viết nữa! thì tôi càng muốn nói lại với ông Tâm. Nhưng ông Tâm gặp tôi dường như chỉ để nói câu đó! Ông Tâm đã nói được câu cần nói rồi nên cuộc gặp cũng kết thúc!
Anh yêu em! Người đang yêu nào cũng muốn được nói câu đó đến ngàn lần, vạn lần với người mình yêu! Người đang yêu nào cũng luôn có nhu cầu được bộc lộ, giãi bày các cung bậc tình yêu! Trìu mến, tha thiết là một cung bậc của tình yêu! Đau khổ, giận hờn, cả bất bình, phẫn nộ trước những nỗi cay đắng của người yêu cũng là một cung bậc tình yêu! Tôi yêu nước Việt Nam tươi xanh gấm vóc của tôi! Mảnh đất tôi đã chiến đấu giữ gìn và lao động xây dựng! Mảnh đất có mồ hôi, xương máu những người thân yêu của tôi. Màu xanh của đất nước tôi đang bị tàn phá! Máu xương của cha ông tôi đang bị mang ra đổi chác cho lợi ích của những phe nhóm mờ ám, bất lương! Làm sao tôi có thể dửng dưng im lặng! Tôi yêu nhân dân Việt Nam ruột thịt của tôi! Những người dân hiền lành, chịu thương chịu khó đã làm nên nền văn minh lúa nước lung linh hồn người góp vào sự rực rỡ của văn minh nhân loại! Những con NGƯỜI chân chính cao cả đó đến nay vẫn chưa được thực sự có những quyền cơ bản, thông thường của con người, làm sao tôi có thể trơ lì im lặng! Những trang viết là những cung bậc tình yêu của tôi với đất nước Việt Nam máu thịt, với nhân dân Việt Nam thân yêu của tôi!
Đừng viết nữa! Đó là lệnh cấm người con trai đang yêu không được nói Anh yêu em! Không được bộc lộ tình yêu! Cũng như hành động của công an giải tán, bắt bớ người dân biểu tình phản đối Trung Hoa sát nhập quần đảo Trường Sa, quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Hoa là ngôn ngữ nhà nước Việt Nam nói với người dân rằng: Cấm không được yêu nước! Cứ để đất đai Việt Nam cho người Trung Hoa sát nhập vào lãnh thổ của họ để họ bảo lãnh cho các quan chức Việt Nam được trị vì mãi mãi, dù bất tài, tham nhũng đến đâu cũng vẫn ngang nhiên trị vì!
Ở tuổi quàng khăn đỏ, tôi được học năm điều Bác Hồ dạy thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt, Khiêm tốn, thật thà, dũng
cảm! Đừng viết nữa! Đó là lệnh cấm tôi không được yêu Tổ quốc! Không được yêu Nhân dân! Cứ sống đớn hèn, an phận, giữ lấy cuộc sống thong dong cho bản thân và sự bình yên cho cuộc sống lao động làm ăn của con cái, của người thân!
Trí thức dứt khoát không thể là kẻ giá áo túi cơm! Trí thức không phải chỉ là mấy cái học hàm học vị đọc lên nghe loảng xoảng như gõ thanh la não bạt! trí thức là người suốt đời canh cánh món nợ phải trả cho dân cho nước: Một thân lẩn quất đường khoa mục / Hai chữ mơ màng việc quốc gia / ... / Quân thân chưa báo lòng canh cánh / Tình phụ cơm trời, áo cha (Nguyễn Trãi) Ơn vua chưa chút báo đền / Cúi trông hổ đất ngửa lên thẹn trời (Nguyễn Khuyến). Nhà văn không phải chỉ ở cái danh, không phải chỉ để viết mấy tập thơ ngâm vịnh, mấy tập truyện tình lâm li, mấy tập truyện anh hùng ca về thời chiến tranh cách mạng! Nhà văn là phần thức của tâm hồn dân tộc. Bình sinh độc bão tiên ưu chí / Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên (Nguyễn Trãi). Dịch: Bình sinh đơn độc cùng cái chí lo trước / Ngồi ôm chăn lạnh không ngủ suốt đêm. Tấc dạ kẻ sĩ đau đáu trong đêm: Nhà ngặt đèn xanh, con mắt xanh (Nguyễn Trãi) làm sao có thể im lặng trước tanh bành bùn đỏ bauxite trên đỉnh cao nguyên phía Tây, trước ngập ngụa nợ nần Vinashin ở cửa biển phía đông, trước họa mất nước đang diễn ra, trước nỗi đau người Việt bị chính người Việt nô dịch!
Kẻ vô sỉ lúc trẻ cần học hành, rèn rũa trí lự và nhân cách thì không chịu học và cũng không học được liền nhanh chân nhập vào dòng người xuất khẩu lao động tìm đường kiếm sống cho bản thân bằng cơ bắp làm thuê. Đến khi nhờ thời thế, ông bố có quyền lực quốc gia, kẻ làm thuê cơ bắp đó liền được cơ cấu vào câu lạc bộ hai trăm chính khách nắm vận mệnh quốc gia! Quốc gia trong tay những người như thế làm sao không khốn cùng! Quốc gia trong tay những người như thế nên gần bốn mươi năm hòa bình xây dựng đất nước mà Tết Tân Mão 2011 vừa rồi Nhà nước vẫn phải rải gạo cứu đói cho nhiều vùng! Bình thản làm ngơ trước thân phận đất nước, thân phận nhân dân như vậy, đâu còn là người lương thiện!
Đừng viết nữa! Điều cấm đó đã vi phạm Hiến pháp, chống lại Hiến pháp. Hiến pháp hiện hành là Hiến pháp 1992. Đã có ít nhất ba điều của Hiến pháp 1992 cho người dân quyền được nói, được viết, được có ý kiến về những vấn đề của đất nước.
Điều 8: Các cơ quan Nhà nước, cán bộ viên chức Nhà nước phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân.
Điều 53: Công dân có quyền tham gia quản lí Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý.
Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí...
Hiến pháp là ý chí của Nhân dân, là bộ luật khung để triển khai các bộ luật, các văn bản, qui định pháp luật khác. Các văn bản, qui định pháp luật, các hành vi của Nhà nước trái với Hiến pháp là vi Hiến, chống lại ý chí Nhân dân. Hiến pháp cho tôi được viết, được bộc lộ chính kiến, được có ý kiến về những vấn đề của đất nước và xã hội. Hiến pháp cũng buộc quan chức Nhà nước phải lắng nghe tôi, chứ không được phép cấm tôi bộc lộ chính kiến!
Nhưng đảng Cộng sản độc quyền thống trị xã hội, độc quyền thống trị Nhà nước nên thực tế quyền đảng cao hơn Hiến pháp! Quyền đảng áp đảo ý chí Dân! Quyền đảng thủ tiêu Hiến pháp! Từ thế kỉ XVIII, người dân các nước công nghiệp châu Âu đã thực sự có quyền tự do ngôn luận. Ba trăm năm sau, sang thế kỉ XXI rồi mà người dân Việt Nam vẫn chưa có quyền căn bản này!

5. ĐỨC TIN TÔN GIÁO

Khi ông cảnh sát khu vực, đại úy Dương Tấn Lắm quan tâm đặc biệt đến tôi, thường xuyên đến với tôi, thường xuyên “điểm danh” tôi, khi ông quận phó công an Nguyễn Thành Tâm phụ trách an ninh nội chính bề bộn công việc vẫn dành thời gian gặp tôi tới hai lần là công an đã đưa tôi vào kính ngắm, coi tôi là đối tượng của cuộc đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, một mất một còn. Vì thế tôi đã nói với ông Tâm rằng cuộc gặp của ông Tâm với tôi chỉ là khúc dạo đầu, chỉ là nấc thang đầu tiên trong ứng xử của công an với tôi. Chuyện trò với ông Tâm tôi cũng cảm nhận được là, ông Tâm chưa hề đọc các bài viết của tôi! Điều tôi cảm nhận rõ hơn nữa là đức tin tôn giáo của ông Tâm vào học thuyết đấu tranh giai cấp sai lầm, tệ hại của ông Marx đã gây cho dân tộc Việt Nam những đau thương mất mát nặng nề, làm cho trang sử cách mạng Việt Nam những năm tháng vừa qua, phía sau khúc tráng ca do tuyên truyền tạo nên là khúc bi ca ai oán về một dân tộc tang tóc và chia rẽ sâu sắc, một đất nước tan nát! Đó thực sự là những trang sử đau thương trong lịch sử Việt Nam vốn đã quá nhiều đau thương!
Đức tin tôn giáo là đức tin bằng cảm tính, bằng giáo lí, với lòng thành kính, ngưỡng mộ vào một lí tưởng tưởng là tuyện đối, vĩnh hằng, cao cả, nhân hậu, cứu rỗi con người. Vì là đức tin nhiều cảm tính, nặng giáo lí nên nhiều mê muội, thiếu tỉnh táo. Năm 26 tuổi, học trường Sĩ quan Thông tin, bên cạnh những môn học vô tuyến điện, chiến thuật tác chiến của tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh trong các hình thức chiến thuật: Vây căn cứ, diệt viện binh. Vận động tấn công kết hợp chốt chặn... Sĩ quan thông tin phải tổ chức thông tin bảo đảm chỉ huy cho những hình thái chiến thuật đó, tôi còn được học khá nhiều giờ về triết học Marx Lénine, về chủ nghĩa xã hội khoa học và tôi đã từng có đức tin tôn giáo đó!
Ông Tâm chưa đọc các bài viết của tôi nhưng vì đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp mà ông Tâm dành cho tôi hai cuộc gặp! Cũng vì đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp mà những chiến sĩ công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình đã hành xử quá bạo liệt, nhẫn tâm, phản nhân văn đối với những tiếng nói đòi giải phóng con người, giải phóng dân tộc khỏi mớ giáo lí phản con người, phản dân tộc! Bạo liệt, nhẫn tâm cả với những phụ nữ yếu ớt, đơn độc cần được nâng đỡ che chở như các chị Lê Thị Công Nhân, Tạ Phong Tần, Dương Thị Tân, Phạm Thanh Nghiên... Vì thế, tôi thấy cần viết một chút về đức tin tôn giáo vào học thuyết đấu tranh giai cấp đã mang đến cho dân tộc Việt Nam bao tai họa và đang làm chia rẽ, li tán, suy yếu dân tộc Việt Nam.
Khi ông K. Marx và ông F. Engels công bố Tuyên ngôn của đảng cộng sản, tháng hai, năm 1848, ông Marx sinh tháng năm, năm 1818, mới 29 tuổi, ông Engels, sinh tháng mười, năm 1820, mới 27 tuổi. Khổng Tử, nhà tư tưởng cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa đã khái quát chặng đường đời của kẻ làm trai có chí bình sinh là: Tu thân – Tề gia – Trị quốc – Bình thiên hạ. Và mốc tuổi tác của những chặng đường đó là: Tam thập nhi lập – Tứ thập bất hoặc – Ngũ thập tri thiên mệnh.. Ba mươi tuổi, tam thập nhi lập, mới là tuổi lập thân, tề gia, ổn định gia đình, Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà / Cả ba việc ấy ắt là phải lo. Bốn mươi tuổi mới có sự tự tin để không còn nghi hoặc, để hiểu mình, hiểu người, đảm đương, gánh vác những trách nhiệm nặng nề trước xã hội. Học hành, tích lũy kiến thức, phát triển tư duy sáng tạo, đến năm mươi tuổi mới biết mệnh đất trời, mới nắm được qui luật tự nhiên. Thế giới tự nhiên là thế giới vật chất, nhìn thấy, nắm bắt, cân đo được, do đó khám phá qui luật tự nhiên cũng dễ dàng, đơn giản hơn khám phá qui luật xã hội phi vật thể. Những thiên tài kiệt xuất của loài người cũng phải ngũ thập tri thiên mệnh, đến tuổi năm mươi mới mon men tiếp cận được một, hai qui luật tự nhiên. N. Copernic, 1473 – 1543, nhà khoa học lỗi lạc người Ba Lan sau hàng năm trời dán mắt vào ống kính nhìn xa hướng lên vòm trời và sau hàng năm trời đo đạc bóng mặt trời đổ trên mặt đất, mãi 57 tuổi mới khám phá ra quả đất quay quanh mặt trời. Nhà khoa học thiên tài người Anh I. Newton, 1642 – 1727, sau hàng ngàn lần nhìn quả táo rụng trong vườn, sau hàng ngàn ngày đọc sách suy ngẫm tìm tòi, mãi năm 47 tuổi mới khám phá ra qui luật vạn vật hấp dẫn!
Không như qui luật tự nhiên hiển hiện trong vật thể, có thể cân đo, có thể tái tạo trong phòng thí nghiệm, qui luật xã hội ẩn chứa trong đời sống xã hội, ẩn chứa trong thăm thẳm lịch sử phát triển xã hội loài người, không thể cân đo, không thể tái tạo. Lịch sử loài người chính là phòng thí nghiệm để tìm ra qui luật xã hội nhưng đọc được kết quả thí nghiệm đó ngoài thông tuệ kinh sử cần có mẫn cảm nghệ sĩ và quan trọng nhất là sự từng trải cuộc đời. Với khoa học tự nhiên, tuổi 29 và tuổi 27 vẫn là tuổi trẻ người, với khoa học xã hội, tuổi 29 và tuổi 27 càng trẻ người non dạ! Thời hai thanh niên 29 tuổi và 27 tuổi, Marx và Engels, mở to mắt nhìn vào xã hội, nhận thức xã hội là thời gian giai cấp tư sản công nghiệp vừa hình thành đang hổi hả tích lũy tư bản bằng bóc lột tàn nhẫn sức lực, mồ hôi và cả máu những người làm thuê mà ông Marx đưa lên thành giai cấp công nhân. Cùng với bóc lột người làm thuê trong nước, giai cấp tư sản công nghiệp cũng quyết liệt xâm chiếm thuộc địa bằng chiến tranh xâm lược để bóc lột tài nguyên thuộc địa và bóc lột máu người dân thuộc địa. Chủ nghĩa tư bản thời hoang dã đó thực sự là con thú đói! Đói vốn! Đói thời gian! Đói sức lao động! Đói nguyên liệu! Con thú người đó đã bộc lộ sự man rợ độc ác nhất trong mối quan hệ xã hội người! Trẻ người non dạ lại phải chứng kiến tội lỗi ngập ngụa của xã hội tư bản thời hoang dã, chứng kiến hai thái cực đối kháng trong mối quan hệ ông chủ bóc lột và người làm thuê bị bóc lột, hai thanh niên tuổi 29 và 27, Marx và Engels, liền hăm hở soạn thảo Tuyên ngôn của đảng Cộng sản, cương lĩnh chính trị đưa giai cấp làm thuê lên vũ đài chính trị đấu tranh giai cấp nhân tạo quyết liệt!
Tuyên ngôn to tát, lời lẽ hùng hồn nhưng lại vô cùng non nớt về chính trị của ngòi bút tuổi trẻ thừa bầu máu nóng nhưng lại thiếu sự chín chắn, từng trải và tầm khái quát không thể thiếu của một luận văn chính trị. Ngay câu đầu tiên của Tuyên ngôn đảng Cộng sản, hai thanh niên 29 tuổi và 27 tuổi, Marx và Engels, đã coi chủ nghĩa Cộng sản do họ khai sinh ra là bóng ma! Nguyên văn câu đầu tiên của Tuyên ngôn đảng Cộng sản: Một bóng ma đang ám ảnh châu Âu - bóng ma chủ nghĩa Cộng sản! The Communist Manifesto: A spectre is haunting Europe – the spectre of Communism! Bóng ma thì không có thật! Đã là bóng ma thì chẳng có gì tốt lành! Kêu gọi giai cấp vô sản thế giới làm cách mạng thế giới bằng chủ nghĩa Cộng sản chỉ là bóng ma thì quá ngờ nghệch, dại dột, hớ hênh, non kém của một thủ lĩnh chính trị trẻ người non dạ, còn thiếu hụt quá lớn kiến thức xã hội! Thực tế đã chứng minh đúng như điều Marx và Engels đã viết trong Tuyên ngôn đảng Cộng sản, chủ nghĩa Cộng sản chỉ là bóng ma!
Đất nước Xô Viết sau gần một thế kỉ tìm đường đi lên chủ nghĩa Cộng sản bằng mồ hôi, máu và nước mắt đã phải dừng lại, quay về với con đường phát triển theo qui luật tự nhiên là kinh tế tư bản! Vì càng đi, những tiêu chí của chủ nghĩa Cộng sản càng xa vời, trong khi thực tế những nước tư bản chủ nghĩa lại đang đến ngày càng gần với những tiêu chí nhân đạo của chủ nghĩa Cộng sản! Sau gần một thế kỉ đấu tranh giai cấp khốc liệt để xây dựng chủ nghĩa Cộng sản trên phạm vi thế giới, hơn một trăm triệu mạng người đã bị giết bởi đấu tố, thủ tiêu, tù đày, pháp trường. Tất cả những nước thực hiện chủ nghĩa Cộng sản đều có hàng triệu, hàng chục triệu người bị giết tức tưởi do đấu tranh giai cấp, đều có hàng triệu, hàng chục triệu người bị tù đày hoặc phải bỏ nước ra đi do đấu tranh giai cấp! Đó là thực tế lịch sử không thể chối cãi!
Tuyên ngôn đảng Cộng sản đã nâng những người lao động làm thuê, thời đó hầu hết là lao động làm thuê bằng cơ bắp, không vốn liếng, không tri thức, chỉ có lòng căm thù giai cấp và khát khao đòi quyền lợi, trở thành giai cấp công nhân và đưa họ lên vũ đài chính trị, đẩy họ vào cuộc đấu tranh giai cấp nhân tạo tàn khốc chỉ với mục đích bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình! Tuyên ngôn đảng Cộng sản đã vô cùng sai lầm, cực đoan khi tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp. Tuyên ngôn khẳng định chắc nịch: Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp! Chính luận điểm cực đoan, sai trái, nguy hại này đã đẩy loài người vào cuộc đại loạn đấu tranh giai cấp tàn bạo, triền miên, kéo dài suốt thế kỉ XX, thế kỉ xuất hiện, lan tràn các đảng Cộng sản.
Loài người xuất hiện từ một loài khỉ tinh khôn biết lao động bằng công cụ và sự phát triển của công cụ lao động cũng chính là sự phát triển của loài người. Lịch sử phát triển từ chiếc rìu đá đến bàn phím máy vi tính là lịch sử huy hoàng, lí thú, hấp dẫn, đầy tính người, rất tiêu biểu cho lịch sử phát triển xã hội loài người. Viết như Tuyên ngôn đảng Cộng sản thì cũng có thể viết: Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến nay chỉ là lịch sử của công cụ lao động. Vai trò quan trọng, quyết định của công cụ lao động đối với xã hội loài người đã từng được Marx nhìn nhận khi ông viết: Vấn đề quan trọng không phải là làm ra cái gì mà bằng cách gì làm ra cái đó. Chiếc cày chìa vôi và máy cày, máy gặt đập liên hợp cùng làm ra hạt lúa. Nhưng với chiếc cày chìa vôi, một người một vụ cực nhọc từ sớm đến khuya chỉ làm ra vài tạ lúa, cuộc sống quanh năm lam lũ, đói khổ! Với máy cày, máy gặt đập liên hợp, một người một vụ thong thả, nhẹ nhàng cũng làm ra hàng ngàn tấn lúa, cuộc sống phong lưu, nhàn nhã! Nếu nhìn nhận lịch sử xã hội loài người bằng lịch sử công cụ lao động thì loài người đã không phải trải qua một thế kỉ đấu tranh giai cấp nồi da nấu thịt!
Lịch sử xã hội loài người dù ở bất kì thời nào, ở bất kì nước nào đều có chu kì thịnh – suy và thời thịnh là chủ yếu. Yếu tố làm nên thời thịnh và đặc trưng thời thịnh là: Vua sáng, tôi hiền. Lễ nghĩa, kỉ cương được coi trọng. Người dân được chăm lo, bảo vệ. Cuộc sống bình yên. Trên dưới thuận hòa, một lòng dựng nước, giữ nước. Nhờ có thời thịnh xuyên suốt trong lịch sử, các quốc gia được củng cố, vững mạnh mới còn lại đến hôm nay. Nhờ có thời thịnh kéo dài hàng trăm năm, hàng ngàn năm mới hình thành được những nền văn minh rực rỡ, mới xuất hiện những nền văn hóa đặc sắc còn lại đến hôm nay. Khi giai cấp thống trị thối nát, bóc lột, đàn áp, hà hiếp lương dân, dân đói khổ bất bình nổi lên. Đó là lúc đấu tranh giai cấp, lúc xã hội suy vong. Đấu tranh giai cấp là đấu tranh xã hội ở phạm vi quốc gia đã tan nát cả nước, đã nghèo khổ cả dân tộc, là thảm họa của dân tộc, ở phạm vi thế giới là tàn phá cả thế giới, là thảm họa của cả loài người, không thể có văn minh, càng không thể có phát triển! Chở thuyền là sức dân, lật thuyền cũng là sức dân! Dân đóng thuế nuôi Nhà nước nhưng khi khi Nhà nước suy vong, thối nát, hại dân, phản nước, chính Dân sẽ lật đổ Nhà nước thối nát, dựng lên Nhà nước mới tử tế với dân, mở ra thời thịnh mới!
Đấu tranh giai cấp chỉ nổi lên khi xã hội suy vong. Đó là những khúc ghềnh thác của dòng chảy lịch sử, là những trang sử buồn trong pho sử oanh liệt hào hùng của các dân tộc. Lịch sử dân tộc nào cũng có những khúc ghềnh thác, những trang sử buồn, nhưng đó chỉ là khoảnh khắc, không phải là toàn bộ lịch sử. Lịch sử một đất nước, một dân tộc mà chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp thì đất nước đó, dân tộc đó không thể tồn tại đến hôm nay. Người sinh hạ ra học thuyết đấu tranh giai cấp, sinh hạ ra chủ nghĩa Cộng sản càng dấn sâu vào sai lầm khi nông nổi khẳng định: Đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển!
Đấu tranh giai cấp là nội chiến ở Liên Xô, là tử hình cả gia đình Nga Hoàng, cả gia đình quí tộc, ku lắc, tư sản, thời Lénine! Đấu tranh giai cấp là kì thị trí thức, là thủ tiêu hàng chục triệu trí thức, nghê sĩ, cán bộ, đảng viên Cộng sản thời Staline! Đấu tranh giai cấp là thổ cải, là công xã, là cách mạng văn hóa, đấu tố, truy bức, giết hại hàng chục triệu người ở Trung Hoa, là đất nước kiệt quệ, tan hoang, hàng trăm triệu dân nghèo đói, nhà nọ phải đổi con cho nhà kia để giết trẻ con ăn thịt cho qua cơn đói thời Mao Trạch Đông! Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp là cải cách ruộng đất, đấu tố, truy bức, giết hại hàng trăm ngàn đồng bào, đồng chí của cách mạng, là cải tạo tư sản phá sạch cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân, là thủ tiêu tài năng sáng tạo của người lao động! Đấu tranh giai cấp là tù đày, hãm hại những nhà cách mạng trung thực, những trí thức, nghệ sĩ tài năng trong những vụ án tạo dựng! Đấu tranh giai cấp là sau tháng tư năm 1975 tù đày không án hơn một triệu người đã làm việc cho chính quyền Sài Gòn, khoét sâu mãi hố ngăn cách trong lòng dân tộc! Đấu tranh giai cấp là không cần biết đến pháp luật, công cụ bạo lực chuyên chính vô sản muốn bắt ai thì bắt, muốn đẩy ai vào tù thì đẩy! Những cái đó là động lực phát triển xã hội sao?
Đấu tranh giai cấp chỉ làm hỗn loạn xã hội, suy yếu dân tộc, thụt lùi lịch sử. Chỉ có trí tuệ, chỉ có tự do dân chủ, giải phóng năng lực sáng tạo của con người mới là động lực phát triển xã hội. Nhờ có trí tuệ được giải phóng, con người khám phá ra những qui luật tự nhiên và vận dụng những qui luật đó tạo ra những máy móc công nghiệp, mở ra thời công nghiệp đưa con người từ xã hội phong kiến nông nghiệp thô sơ, tối tăm, ngưng đọng sang xã hội tư bản công nghiệp chan hòa ánh sáng và thần tốc phát triển. Trí tuệ làm cho con người trở thành khổng lồ. Trí tuệ mới thực sự là động lực thúc đẩy xã hội phát triển chứ không phải là đấu tranh giai cấp!
Tuyên ngôn đảng Cộng sản của Marx và Engels tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp để tuyệt đối hóa giai cấp công nhân, đưa giai cấp công nhân lên chủ thể xã hội, trở thành giai cấp quyết định vận mệnh loài người, quyết định tiến trình lịch sử. Giai cấp công nhân thời ông Marx chỉ là những người lao động cơ bắp, những người quai búa trong các xưởng máy và chiếc búa, công cụ lao động thô sơ của họ cùng với chiếc liềm gặt lúa của giai cấp nông dân trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản! Hai công cụ lao động tiêu biểu thời ông Marx đã trở thành xa lạ với hôm nay! Chỉ riêng biểu tượng của chủ nghĩa Cộng sản đã thấy sự lỗi thời của chủ nghĩa Marx! Tuyên ngôn đảng Cộng sản tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp cũng để tuyệt đối hóa vai trò của đảng Cộng sản, tuyệt đối hóa vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản!
Tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp là một sai lầm lịch sử của loài người do đó tuyệt đối hóa vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản cũng là một sai lầm lịch sử của loài người! Các nước công nghiệp châu Âu với những lãnh tụ Cộng sản kiệt xuất Marx, Engels, Lénine đã đưa giai cấp công nhân quai búa đi trước trong đấu tranh giai cấp do đó họ cũng đi trước trong nhận ra sai lầm lịch sử của đấu tranh giai cấp và họ đã đi trước trong việc dứt khoát từ bỏ sai lầm lịch sử đó. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, trước đòi hỏi thúc bách của cuộc sống, trước sự vận động của lịch sử, từ năm 1989, các nước Cộng sản châu Âu đã phải đồng loạt từ bỏ đấu tranh giai cấp, từ bỏ vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam bất chấp thực tế cuộc sống và lời giải đáp của lịch sử, vẫn khư khư giữ lấy sai lầm và tội lỗi của đấu tranh giai cấp, tiếp tục nô dịch nhân dân trong sự độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản! Đó là món nợ của đảng Cộng sản Việt Nam cộng thêm vào món nợ máu từ trước mà đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân tộc Việt Nam, vay của lịch sử Việt Nam!
Đấu tranh giai cấp đẻ ra chuyên chính vô sản. Để thực hiện chuyên chính vô sản phải có công cụ bạo lực và công an chính là công cụ bạo lực đó. Khẩu hiệu treo trước cơ quan bộ Công an: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình chính là bản giao kèo bán linh hồn công an cho đảng Cộng sản và đảng Cộng sản đã lấy tiền thuế của dân để mua những linh hồn đó, biến con người thành công cụ rồi dùng công cụ công an tước đoạt quyền tự do dân chủ của dân, nô dịch dân! Với bản giao kèo Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình, công an không còn là công cụ bảo vệ pháp luật, công an không còn để bảo vệ dân nữa, công an chỉ còn là công cụ của đảng Cộng sản, chỉ để bảo vệ đảng Cộng sản!
Thưa ông Nguyễn Thành Tâm và các ông công an chỉ biết còn đảng còn mình! Là một người lính đã đi qua suốt những năm tháng khắc nghiệt nhất của lịch sử đất nước, trong đó có bốn mươi năm là người Cộng sản, tôi đã từng gửi đức tin vào đấu tranh giai cấp để rồi tôi phải nhận ra đó là đức tin tôn giáo mê muội. Giặc ngoại xâm gây ra cho dân tộc Việt Nam những tội ác man rợ, độc địa, nặng nề nhất chính là giặc Minh thế kỉ XV đến từ Trung Nguyên phía Bắc! Học thuyết đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc chém giết đẫm máu nhất, học thuyết đày đọa người Việt Nam tàn khốc, thê thảm nhất, học thuyết chia rẽ dân tộc Việt Nam triệt để, sâu sắc nhất, học thuyết kìm hãm, hủy diệt sức sống Việt Nam nặng nề, lâu dài nhất chính là học thuyết đấu tranh giai cấp cũng đến từ Trung Nguyên phương Bắc. Học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx xuất xứ từ châu Âu nhưng đi qua con đường Trung Hoa đến Việt Nam. Từ bản gốc đấu tranh giai cấp đã mất tính người. Đấu tranh giai cấp đến Việt Nam qua những cố vấn Trung Hoa, mang màu sắc bạo chúa Trung Hoa, lại kèm cả mưu đồ Đại Hán Trung Hoa sẽ càng tăm tối, nguy hại!
Với những người lính chúng tôi, khẩu súng của chúng tôi không hướng vào nhân dân mà hướng vào những đội quân xâm lược. Nhân dân thân yêu luôn ở phía sau những người lính chúng tôi. Mồng hai Tết nguyên đán Tân Hợi 1971, lớp học viên trường sĩ quan Thông tin chúng tôi vai mang súng, lưng cõng máy vô tuyến điện đi diễn tập chiến đấu. Chúng tôi vừa dừng chân đào hầm, dựng lán trong cánh rừng Yên Thế, Bắc Giang, thì những bà mẹ trong hội Mẹ Chiến Sĩ gánh gạo nếp, xách gà đến. Ngày đó dân miền Bắc nghèo lắm, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Người dân nông thôn càng nghèo khổ hơn! Thế mà những người mẹ nghèo ấy bắt gà nuôi trong chuồng, xúc gạo nếp nhà dành cho ngày giỗ ngày tết cho chúng tôi ăn tết. Ngày tết xa nhà, được ăn bát cơm nếp thơm, miếng thịt gà ngọt của những người mẹ nghèo, nước mắt tôi cứ ứa ra. Dù mê muội đấu tranh giai cấp thế nào, chúng tôi cũng không thể gây tội ác với nhân dân!
Nhưng với công an, công cụ bạo lực của nhà nước chuyên chính vô sản thì khác. Thực chất của chuyên chính vô sản là nô dịch nhân dân! Đối tượng của chuyên chính vô sản chính là nhân dân. Những tiếng nói trung thực của nhân dân khác biệt với nhà nước chuyên chính vô sản, những tiếng nói khát vọng tự do dân chủ của nhân dân đều trở thành Các – Thế - Lực – Địch, đều trở thành đối tượng chuyên chính của công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình! Trong những tình thế đó, sự mê muội đấu tranh giai cấp đã đẩy nhân dân ruột thịt sang phía Các – Thế - Lực – Địch như đã từng diễn ra trong cải cách ruộng đất, trong vụ việc tạo dựng lên vụ án xét lại chống đảng, trong vụ việc Nhân Văn Giai Phẩm . . . Sự mê muội đấu tranh giai cấp của công an, công cụ bạo lực chuyên chính vô sản sẽ là nước mắt, là máu của nhân dân, là những năm tháng tù đày dành cho những tinh hoa, những khí phách Việt Nam, là tội ác với dân tộc, với lịch sử!

6. HIỂM HỌA TỪ PHƯƠNG BẮC

Bên cạnh đế quốc phương Bắc khổng lồ có nền văn minh rực rỡ lâu đời, có đội quân nhà nghề hùng mạnh, cơ động và thiện chiến, có triết lí Bình thiên hạ từ hơn 1500 năm trước, luôn nuôi tham vọng bành trướng thôn tính không gian lãnh thổ lân bang và đồng hóa không gian tâm hồn dân tộc láng giềng, dân tộc Việt Nam nhỏ bé, hiền lành cùng với nền văn minh lúa nước khiêm nhường vẫn tồn tại và lặng lẽ phát triển từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Cửu Long là nhờ nền văn minh lúa nước Việt Nam tuy khiêm nhường nhưng có bản sắc riêng, có sức sống bền bỉ như cây lúa trời Nam Bộ, không bị nền văn minh thảo nguyên phương Bắc đồng hóa, là nhờ khối thương yêu đùm bọc dân tộc Việt Nam.
Trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, những câu ca dao nhắc nhở tình thương yêu đùm bọc dân tộc là những câu tha thiết nhất. Thương yêu đùm bọc dân tộc vừa là tình cảm thân thiết, gần gũi: Bầu ơi thương lấy bí cùng / Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Vừa là tình cảm thiêng liêng, cao cả, rộng lớn: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng. Nhắc nhở con cháu bằng ca dao, tục ngữ về tình thương yêu đùm bọc dân tộc, tổ tiên người Việt còn nhắc nhở con cháu bằng cả những câu chuyện thần linh, truyền thuyết, huyền thoại. Truyền thuyết bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ là lời nhắc nhở tha thiết đó. Truyền thuyết bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ là Tuyên ngôn về tình thương yêu đùm bọc dân tộc của dân tộc Việt Nam! Tuyên ngôn được tổ tiên làm sẵn từ trước cho con cháu để bác bỏ, để ngăn chặn học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Marx, bác bỏ Tuyên ngôn đảng Cộng sản đưa giai cấp ra trấn áp, đánh phá dân tộc! Người trong nước Việt Nam không phân biệt giai tầng sang hèn, không phân chia giai cấp giàu nghèo, dù là người Việt trên núi cao Việt Bắc hay người Việt dưới bưng biền Nam Bộ đều từ bọc trăm trứng của Mẹ Âu Cơ sinh ra, đều là đồng bào, cùng một bọc! Hỡi đồng bào cả nước! Tiếng đồng bào mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi nhân dân Việt Nam đứng lên đánh giặc cứu nước trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ là lời kêu gọi những đứa con cùng một bọc của Mẹ Âu Cơ, Mẹ Việt Nam, là lời vang vọng của tổ tiên, của non sông đất nước Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam!
Nền sản xuất nông nghiệp lúa nước tạo ra nền văn minh lúa nước sông Hồng, cũng tạo ra thế giới tâm hồn giàu chất trữ tình, giàu tình thương yêu trong con người Việt Nam. Tình thương yêu vừa là sản phẩm của nền văn hóa, vừa là đòi hỏi của sự tồn tại, là lời giải trước thách đố của lịch sử, của hoàn cảnh! Thương người như thể thương thân, Lá lành đùm lá rách, vừa là đạo lí, vừa là lẽ sống, là bí quyết tồn tại của dân tộc Việt Nam! Đạo lí của ông Marx là đấu tranh. Với ông Marx, hạnh phúc là đấu tranh! Đấu tranh là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Đạo lí của dân tộc Việt Nam là thương yêu, là Lá lành đùm lá rách!
Giặc hung bạo cướp nước lúc nào cũng lăm le, rình rập ở cửa ngõ phía Bắc mà ở trong nước người Việt Nam lại chia trận tuyến giai cấp đấu tố, loại bỏ nhau, lá rách đấu tố lá lành, lá rách xử bắn lá lành, Trí phú địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ thì dân tộc Việt Nam đâu còn đến hôm nay! Chỉ những người Việt Nam thiếu giáo dục, không được nghe những lời hát ru của mẹ bằng ca dao, dân ca, không được mẹ kể cho nghe những câu chuyện cổ tích, thần thoại về tình thương yêu đùm bọc dân tộc, không được học thấu đáo lịch sử đất nước, không tiếp nhận được cái hồn lịch sử Việt Nam, không biết đến di sản của tổ tiên mới rước học thuyết đấu tranh giai cấp bạo liệt, phản con người, phản dân tộc về hủy diệt dân tộc Việt Nam, làm dân tộc Việt Nam suy yếu để đế quốc Cộng sản Trung Hoa nhảy vào khống chế, nô dịch dân tộc Việt Nam!
Trước chiến thắng Biên giới 1950, trước khi có những đoàn cố vấn Trung Hoa mang học thuyết đấu tranh giai cấp tràn vào Việt Bắc, Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không hề có khái niệm đấu tranh giai cấp. Điều đó được chứng minh trong Tuyên ngôn dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2.9.1945 và trong ứng xử đối nội, đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nếu có đấu tranh giai cấp thì Quốc hội năm 1946 không thể có các đảng phái không Cộng sản như đảng Dân chủ, đảng Xã hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Nếu có đấu tranh giai cấp thì Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không thể thu nạp được những đại thần của vương triều nhà Nguyễn như các ông Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, Phạm Khắc Hòe..., những nhà tư sản, địa chủ lớn như các ông Nguyễn Sơn Hà, Đỗ Đình Thiện, Lâm Triều Phát..., những trí thức xuất thân từ tầng lớp trên như các ông Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Đắc Di, Đặng Phúc Thông, Dương Bạch Mai,...
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Cộng sản đơn giản chỉ vì Quốc tế Cộng sản ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc. Năm 1920, đọc luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lénine, trong đó người đứng đầu Quốc tế Cộng sản đã nồng nhiệt ủng hộ, khuyến khích cách mạng giải phóng dân tộc, coi cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận hữu cơ của cách mạng vô sản thế giới, Hồ Chí Minh sung sướng đến ứa nước mắt! Đây rồi, phương hướng, cẩm nang, bạn đường của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đây rồi! Hồ Chí Minh cùng với cộng sự của ông đến với chủ nghĩa Cộng sản chỉ để tìm đường cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm mà thôi. Cũng mục đích giành độc lập dân tộc, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hoàng Hoa Thám... chọn con đường khởi nghĩa, Phan Bội Châu chọn con đường Đông Du, Phan Chu Trinh chọn con đường mở mang dân trí, đấu tranh nghị trường, Hồ Chí Minh chọn con đường Cộng sản. Tóm lại, giải phóng dân tộc là mục đích, Cộng sản chỉ là con đường, là phương thức của thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc, không phải là đích đến của dân tộc Việt Nam!
Tiêu chí chống áp bức, chống bất công của chủ nghĩa Marx Lénine rất phù hợp với cách mạng giải phóng dân tộc vì xâm lược chính là áp bức dân tộc, là bất công ở cấp quốc gia. Chưa bị bóp méo, chưa bị biến dạng, chưa bị lợi dụng cho những mục đích dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa Marx Lénine trung thực, nguyên sơ đến với cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã hội tụ được sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại, đưa cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi vẻ vang.
Nhưng chủ nghĩa Marx trong kinh tế là công hữu hóa tư liệu sản xuất, hành chính hóa hoạt động kinh tế, triệt tiêu sức sáng tạo trong lao động sản xuất, làm trì trệ, ngưng đọng cả nền kinh tế, làm nảy sinh những bất công mới sâu sắc, nặng nề gấp nhiều lần những bất công do bóc lột tư bản tạo ra!
Chủ nghĩa Marx trong đời sống xã hội là đấu tranh giai cấp đẫm máu và nước mắt để giành và giữ độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản bằng bạo lực! Máu và nước mắt cứ xối xả, triền miên trong suốt quá trình tồn tại của Nhà nước chuyên chính vô sản. Đấu tranh giai cấp thực chất là xóa bỏ vai trò cá nhân và từ bỏ lợi ích dân tộc, nói cách khác, với đấu tranh giai cấp, chỉ có vai trò của những cá nhân lớn và lợi ích của dân tộc lớn. Chỉ có con người có quyền lực trong đảng Cộng sản mới có cá nhân và ý chí cá nhân của họ trở thành ý chí của đảng Cộng sản cầm quyền, trở thành ý chí của Nhà nước Cộng sản. Còn lại, người dân dù là nhà khoa học, nhà văn hóa lớn cũng chỉ là đám đông lao xao, không có cá nhân, không có quyền tự do dân chủ. Đám đông lao xao ấy chỉ được nghĩ theo, nói theo, răm rắp làm theo sự dẫn dắt của người có quyền! Ai nghĩ khác, nói khác đều bị đẩy sang Các – Thế - Lực –Thù – Địch, bị trừng trị bởi công cụ bạo lực của đấu tranh giai cấp: công an, tòa án, nhà tù, trường bắn! Trong Nhà nước chuyên chính vô sản đấu tranh giai cấp, con người lại trở về bày đàn, không có cá nhân, con người bầy đàn của xã hội trước tư bản!
Phương Tây của ông Marx trước tư bản là chế độ phong kiến lãnh chúa, hầu như toàn bộ của cải, toàn bộ tư liệu sản xuất đều tập trung vào số ít lãnh chúa, chủ đất giàu có. Người lao động nông nghiệp, về số phận hoàn toàn phụ thuộc vào chủ đất, về công việc phụ thuộc vào thiên nhiên, cuộc sống bấp bênh, thân phận con ong, cái kiến! Người lao động chỉ như một công cụ sản xuất của chủ đất, không có vai trò gì trong xã hội, chỉ là đám đông lao xao, không có cá nhân! Những phát minh khoa học tạo ra cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên của loài người cũng tạo ra cuộc cách mạng xã hội kết thúc vai trò lịch sử của giai cấp lãnh chúa, chủ đất, đưa giai cấp tư sản công nghiệp lên chủ thể xã hội. Nông nô được giải phóng trở thành công nhân công nghiệp. Không còn bị cột vào đất đai, không còn là công cụ sản xuất của chủ đất, không còn phụ thuộc vào thiên nhiên, người lao động công nghiệp làm chủ lấy cuộc đời họ. Máy móc xuất hiện ngày càng nhiều, được sử dụng trong mọi hoạt động sản xuất, kĩ thuật ngày càng hoàn thiện, năng suất lao động ngày càng cao, người lao động ngày càng có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Họ không còn lẫn trong đám đông lao xao nữa. Họ đã tách ra thành những cá nhân độc lập, có đời sống riêng, có đòi hỏi, khát vọng riêng, được xã hội biết đến qua tên gọi riêng, qua cá tính riêng. Họ có ý thức rất rõ về sự có mặt của họ trong xã hội với tư cách là những chủ thể, những cá nhân công dân trong xã hội. Đó là ý thức về cái Tôi, ý thức cá nhân. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản con người mới có ý thức về cá nhân, mới có cái Tôi thiêng liêng! Cái Tôi thiêng liêng là con người phải được Tự do và Bình đẳng. Tự do và Bình đẳng trở thành tuyên ngôn của cuộc cách mạng đưa giai cấp tư sản lên chủ thể xã hội! Tự do và Bình đẳng trở thành quyền công dân, trở thành luật pháp Nhà nước tư sản! Đó là một bước tiến lớn, một cột mốc chói lọi trong lịch sử giải phóng con người, nâng cao tính NGƯỜI của con Người. Bước tiến đó đã được Marx ghi nhận: Ý thức về cá nhân là đóng góp vĩ đại của chủ nghĩa tư bản đối với lịch sử!
Tự do và Bình đẳng cũng là cái đích mà cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam hướng tới. Vì thế Hồ Chí Minh đã trích dẫn đoạn văn là linh hồn của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 ngay trong phần mở đầu Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 dựng lên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Người ta sinh ra Tự do và Bình đẳng về quyền lợi và luôn được Tự do và Bình đẳng về quyền lợi.
Trong Tuyên ngôn đảng Cộng sản, Marx và Engels, những người khai sinh ra chủ nghĩa Cộng sản cũng nhận thức rất đúng về Tự do cá nhân: Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người! Thế mà chỉ vì để giữ vị trí độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản, học thuyết đấu tranh giai cấp lại tước đoạt quyền tự do dân chủ của người dân! Trong Nhà nước chuyên chính vô sản luôn sôi sục đấu tranh giai cấp, người dân chỉ là đám đông lao xao, chỉ là “quần chúng cách mạng”, được quyền lực sử dụng làm công cụ trong đấu tranh giai cấp! Con người lại trở về là công cụ, không có cá nhân! Chỉ có cá nhân của người nắm quyền lực trong đảng Cộng sản, như xã hội trước tư bản, chỉ có cá nhân của lãnh chúa, chủ đất! Rõ ràng đấu tranh giai cấp đã kéo lùi lịch sử trở về thời trước cách mạng công nghiệp đầu tiên! Kéo lùi dân tộc Việt Nam trở về thời phong kiến nhưng không phải thời phong kiến Lý – Trần huy hoàng mà là thời phong kiến một nhà nước hai bộ máy quyền lực cưỡi trên cổ dân đen! Đồng tiền thuế nghèo của dân phải nuôi hai bộ máy quyền lực quan liêu khổng lồ, bộ máy đảng trùm lên bộ máy nhà nước cùng đè xuống đầu dân! Đó là thời vua Lê, chúa Trịnh, thời đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam độc lập, không bị nước ngoài cai trị, thời đau khổ của dân tộc Việt Nam!
Chỉ riêng học thuyết đấu tranh giai cấp đã cho thấy sự mâu thuẫn, chông chênh, bất ổn của chủ nghĩa Marx. Để đến với lí tưởng Cộng sản cao cả nhưng huyễn hoặc, ảo tưởng, loài người phải cắn răng, nhẫn nhục đi qua chặng đường dài bất tận của đấu tranh giai cấp đầy máu và nước mắt, người dân chỉ còn là công cụ trong tay nhà nước chuyên chính vô sản! Để đến với nhân đạo Cộng sản không có thật, phải chấp nhận cuộc sống có thật vô cùng nghiệt ngã, vô nhân đạo, mất tính người!
Đấu tranh giai cấp trong nội bộ một dân tộc là: Chỉ có cái Tôi của người nắm quyền lực trong đảng Cộng sản, còn dân chúng chỉ là một bày đàn! Đấu tranh giai cấp trên phạm vi thế giới thì các dân tộc nhỏ cũng là một bày đàn dưới sự bảo hộ, áp đặt của một dân tộc lớn! Trước năm 1989, dân tộc lớn bảo hộ cho cả hệ thống Cộng sản thế giới là Liên Xô. Dưới ách bảo hộ đó nhân dân các nước liên tiếp nổi dậy để trở về với bản ngã dân tộc mình. Năm 1953, cuộc nổi dậy của nhân dân nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Năm 1956, cuộc nổi dậy của nhân dân Hungari. Năm 1968, cuộc nổi dậy của nhân dân Tiệp Khắc. Những cuộc nổi dậy của người dân tay không đều bị xe tăng và lưỡi lê của quân dội Liên Xô dập tắt! Từ 1989, các đảng Cộng sản ở Liên Xô và một loạt nước Đông Âu đồng loạt sụp đổ, mất quyền thống trị xã hội! Các dân tộc trong Liên bang Xô Viết và các dân tộc Đông Âu mới được giải thoát khỏi chủ nghĩa Cộng sản không tưởng và đẫm máu của ông Marx! Vài nước Cộng sản ít ỏi còn lại muốn duy trì sự độc quyền thống trị xã hội của đảng Cộng sản đều phải hướng về nước Cộng sản lớn nhất còn lại là nước Trung Hoa.
Đảng Cộng sản Trung Hoa phát động cuộc chiến tranh biên giới đánh Việt Nam ác liệt suốt mười năm, 1979 – 1989. Tháng chín, năm 1989, Trung Hoa vừa ngừng đánh Việt Nam thì tháng chín năm 1990 các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vội hấp tấp sang gặp các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Hoa ở tỉnh lẻ Thành Đô cầu thân với Trung Hoa để dựa vào Trung Hoa duy trì sự thống trị xã hội của đảng Cộng sản Việt Nam, mở đường cho Trung Hoa trở lại tiếp tục công việc đồng hóa chính trị để xâm lược kinh tế và lãnh thổ Việt Nam mà họ đã thực hiện ngay sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, tháng mười, năm 1949 và sau khi Việt Nam quét sạch quân Pháp khỏi đường số Bốn, năm 1950, mở thông biên giới Việt – Trung! Đặt lợi ích của đảng Cộng sản Việt Nam lên trên lợi ích dân tộc Việt Nam, coi sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam cao hơn sự tồn tại của Tổ quốc Việt Nam, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã làm một việc vô cùng nguy hại cho Tổ quốc, cho dân tộc Việt Nam, mở đầu cho những việc làm nguy hại ngày càng lớn sau này như nhân nhượng cho Trung Hoa lấn đất, lấn biển Việt Nam, nhân nhượng cho Trung Hoa vào khai thác bauxite ở Việt Nam! Từ tháng chín, năm 1990, đảng Cộng sản Việt Nam lại đưa dân tộc Việt Nam đến trước một hiểm họa ngày càng rõ, hiểm họa Bắc thuộc!
7. ĐÒN ĐẤU TRANH GIAI CẤP ĐẦU TIÊN ĐÁNH VÀO KHỐI THƯƠNG YÊU ĐÙM BỌC DÂN TỘC VIỆT NAM
Thất bại cay đắng qua hàng ngàn năm chinh phục Việt Nam đã dạy cho đế quốc phương Bắc biết rằng muốn khuất phục dân tộc Việt Nam, muốn thôn tính đất nước Việt Nam, phải phá tan rã khối keo sơn đùm bọc dân tộc Việt Nam, xóa sạch nền văn hóa Việt Nam, làm băng hoại đạo lí Việt Nam. Cơ hội để đế quốc phương Bắc thực hiện được mưu đồ đó khi Việt Nam và Trung Hoa cùng đi con đường Cộng sản, cùng do đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng thực hiện chủ nghĩa Marx Lénine đặt giai cấp lên trên dân tộc, coi đấu tranh giai cấp là tối cao, là lí do ra đời và tồn tại của đảng Cộng sản và đấu tranh giai cấp cũng là nghĩa vụ hàng đầu của các đảng Cộng sản đối với quốc tế vô sản. Vì thế, ngay sau chiến thắng biên giới năm 1950 của cách mạng Việt Nam trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất mở toang biên giới Việt - Hoa, lập tức học thuyết đấu tranh giai cấp như một đại dịch từ Trung Hoa tràn vào Việt Nam!
Từ đây, cùng với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dân tộc Việt Nam nhỏ bé, nghèo khổ, còn ở nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, chưa có giai cấp công nhân lại phải gồng mình lên gánh thêm cuộc cách mạng vô sản thế giới, cuộc cách mạng của giai cấp công nhân công nghiệp, để phải nhận lấy tai ương: Càng giải phóng được nhiều đất đai của tổ tiên khỏi sự chiếm đóng của đội quân xâm lược thì nhân dân Việt Nam càng bị nô dịch vào tư tưởng đấu tranh giai cấp khốc liệt, mất tính người, phản văn hóa, phản đạo lí Việt Nam, khối thương yêu đùm bọc dân tộc Việt Nam càng bị đánh phá tan nát!
Từ đây, giải phóng dân tộc không còn là mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam nữa. Mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam bây giờ là cách mạng vô sản thế giới! Giải phóng dân tộc chỉ để chứng minh cho sức mạnh của học thuyết Marx Lénine, chỉ để chứng minh cho thắng lợi của cách mạng vô sản thế giới, chỉ để ngọn lửa đấu tranh giai cấp lan rộng ra khắp thế giới! Vì thế, cách mạng giải phóng dân tộc phải chấp nhận hi sinh cả mục tiêu giải phóng dân tộc, chấp nhận những mất mát đau thương quá lớn vì lợi ích của cuộc cách mạng vô sản thế giới, thực chất là vì lợi ích của nước Cộng sản đàn anh!
Lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã hoàn toàn làm chủ tình thế trong chiến cuộc đông xuân 1953 – 1954. Hệ thống đồn bốt của Pháp ở Nam Bộ bị xóa từng mảng và đang tan rã theo tác động đôminô. Binh đoàn cơ động chủ lực của Pháp ở Trung Bộ bị đánh tan tác trên đèo An Khê. Ở miền Bắc, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tập trung gần như toàn bộ sức mạnh quân sự của Pháp ở Đông Dương, tập trung cố gắng cao nhất và là cố gắng cuối cùng của bộ máy chiến tranh nước Pháp bị tiêu diệt, toàn bộ gần hai mươi ngàn lính Pháp ở lòng chảo Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bắt sống! Cơ hội giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam đã đến rất gần, đã ở trong tầm tay những người Cộng sản Việt Nam. Nhưng sức ép của những người đồng chí Cộng sản Trung Hoa buộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam phải dừng lại, phải ngậm ngùi kí hiệp định Geneve chấp nhận nỗi đau chia cắt đất nước, dẫn đến cuộc chiến tranh chống Mĩ, thực chất là cuộc nội chiến Nam – Bắc tương tàn, cuộc chiến tranh chia rẽ từng gia đình Việt Nam, vạch trận tuyến trong từng con người Việt Nam, trong từng gia đình Việt Nam!
Đế quốc Cộng sản Trung Hoa không chấp nhận cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam thắng lợi hoàn toàn để có một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, tập trung vào xây dựng đất nước hùng mạnh, vuột khỏi tầm ảnh hưởng, tầm khống chế, vuột khỏi sự ban phát của họ! Với họ, Việt Nam phải mãi mãi chia cắt thành hai mảnh nhỏ bé, xung đột nhau và chỗ chia cắt phải ở vĩ tuyến 17, dứt khoát không chia cắt ở vĩ tuyến 13 theo khẩn cầu của Chính phủ Hồ Chí Minh và với tương quan lực lượng lúc đó, những người Cộng sản Việt Nam hoàn toàn có thể áp đặt được đòi hỏi buộc phía bên kia phải chấp nhận! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam rỉ máu đau thương chia cắt sẽ bất ổn lâu dài và nửa phía Bắc Cộng sản trong tầm chi phối của nước Cộng sản đàn anh Trung Hoa sẽ là tấm lá chắn, khu đệm an toàn cho Trung Hoa và mãi mãi phụ thuộc vào Trung Hoa!
Cuộc kháng chiến chống Pháp sẽ thắng lợi trọn vẹn nếu không bị hai đòn thọc gậy bánh xe của Cộng sản Trung Hoa. Đòn thứ nhất: Chia cắt đất nước! Đòn thứ hai: Cải cách ruộng đất!
Trong chiến dịch đông xuân 1953 – 1954 lịch sử, khi những đại đoàn chủ lực quân đội Nhân dân Việt Nam, đại đoàn 308, đại đoàn 312, đại đoàn 316 vừa thành lập gấp rút hành quân lên Tây Bắc, sang Thượng Lào rồi bí mật lặng lẽ dồn cả về điểm quyết chiến Điện Biên Phủ thì những đoàn ủy cải cách ruộng đất dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Trung Hoa cũng hối hả bủa về những làng quê của vùng kháng chiến trung du Bắc Bộ và khu Bốn. Trên những sườn núi bao quanh thung lũng Mường Thanh, các đại đoàn 308, 312, 316 nổ súng đánh lấn từng căn cứ quân Pháp trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì ở các làng quê trong vùng khang chiến, các đoàn ủy cải cách ruộng đất cũng đốt đuốc thâu đêm phát động quần chúng đấu tranh giai cấp! Từ đây khối thương yêu đùm bọc dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam bị phân chia thành giai cấp đối kháng không đội trời chung, thanh toán nhau một mất một còn: giai cấp địa chủ bóc lột và giai cấp nông dân bị bóc lột!
Miền Bắc Việt Nam thời thuộc Pháp không có lãnh chúa, chủ đất lớn, chỉ có chủ đất nhỏ. Chỉ là chủ đất nhỏ, họ cũng là nông dân chân lấm tay bùn, một sương hai nắng. Vừa có sức lao động: Tháng giêng dắt trâu đi cày / Tháng hai vãi mạ ngày ngày siêng năng. Vừa biết lo liệu, tính toán, tổ chức làm ăn: Một người biết lo bằng một kho người hay làm. Lại biết chắt chiu, tằn tiện, tích lũy: Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện. Đó là ba phẩm chất, ba đòi hỏi không thể thiếu làm nên cơ nghiệp nhà nông. Nhưng nông dân không phải ai cũng có đủ ba phẩm chất đó. Có người chỉ có thể lao động cơ bắp thì chỉ có thể đi làm thuê và không thể tạo nên cơ nghiệp. Thành quả của người chỉ biết lao động cơ bắp đương nhiên phải thấp hơn thành quả của người biết lo liệu, tổ chức công việc cho nhiều người. Sự khác biệt, chênh lệch mức sống nảy sinh từ đó. Sự chênh lệch này, ở chế độ xã hội nào, thời nào và ở đâu cũng có. Sự chênh lệch có tính hợp lí, công bằng, tạo ra sự ổn định, bền vững xã hội. Người có tư liệu sản xuất, biết lo liệu, tổ chức công việc, tạo việc làm nuôi sống người chỉ có thể lao động cơ bắp là nhân đạo xã hội. Xóa bỏ sự hợp lí công bằng này, đưa người không biết lo liệu, chỉ có thể lao động cơ bắp lên lo liệu tổ chức công việc cho cả xã hội là đã tạo ra bất hợp lí, bất công, bất ổn định xã hội mới to lớn, nguy hại cho cả xã hội! Cái nguy hại này đang tồn tại ở ta từ cải cách ruộng đất đến nay!
Thời cải cách ruộng đất dân số Việt Nam mới có hai mươi lăm triện người. Ruộng hoang trong làng, bãi hoang ven sông, ven biển, đất hoang bìa rừng, đồi hoang trung du, nơi nào cũng bạt ngàn mênh mông. Ruộng hoang nhiều đến nỗi ngổn ngang cả trong ca dao: Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang / Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. Trong điều kiện tự nhiên đó, chỉ những người lười biếng, lêu lổng, bê tha cờ bạc, rượu chè hoặc không có đầu óc tính toán tổ chức, chỉ có cơ bắp làm thuê mới nghèo đói ở dưới đáy xã hội. Sự nghèo khổ đó được đội cải cách ruộng đất qui kết là do bóc lột và những người nghèo khổ là những người có thù giai cấp sâu sắc, có tinh thần cách mạng triệt để! Từ cải cách ruộng đất những người cùng khổ được tin cậy đưa lên làm cốt cán trong đấu tranh giai cấp rồi trở thành chủ thể xã hội như cách mạng tư sản châu Âu thế kỉ XVIII đưa giai cấp tư sản lên chủ thể xã hội! Nhưng cách mạng tư sản giao xã hội cho những người giàu có của cải, giàu có trí tuệ. Còn cách mạng vô sản thì làm ngược lại! Trong khi lớp người đông đảo nhất, tinh hoa nhất, tiêu biểu nhất cho nông dân Việt Nam thời cải cách ruộng đất là trung nông, những người có đầu óc, biết tổ chức làm ăn, có đức cần cù, chắt chiu. Trong bài viết Nỗi Đau Dân Chủ, tôi đã lí giải và chứng minh rằng trung nông chính là những người đã sáng tạo nên kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam. No đủ về kinh tế, Trung nông luôn có khát khao vươn lên về trí tuệ và có khả năng thực hiện được khát khao đó. Phải ở tầng lớp trung nông mới có đủ khả năng kinh tế theo đuổi việc học và mới học được. Trung nông chính là nguồn lực lớn nhất của cách mạng Việt Nam. Nguồn lực con người. Nguồn lực của cải. Nguồn lực trí tuệ, tài năng. Những người lãnh đạo cách mạng Việt Nam và chỉ huy quân đội cách mang Việt Nam thời kì đầu đều từ nguồn tài trí này. Lớp người đã sáng tạo cho dân tộc Việt Nam kho tàng văn hóa dân gian cũng chính là lớp người đã làm nên đội ngũ trí thức, nghệ sĩ của cách mạng Việt Nam.
Biết làm ăn, chịu thương chịu khó, chắt chiu, cần kiệm, họ trở thành trung nông, có bát ăn bát để. Nền tảng văn hóa cho họ lòng yêu nước bằng tự giác. Khi đất nước có giặc, họ đi đầu cầm súng đánh giặc. Buổi đầu, nhà nước kháng chiến chỉ có hai bàn tay trắng, không có một hạt thóc nuôi quân! Những trung nông có bát ăn bát để lại trút bát để và sẻ cả bát ăn nuôi đội quân đánh giặc. Nhưng trong cải cách ruộng đất, khoảng cách giữa trung nông và địa chủ rất mong manh, hầu như không có khoảng cách. Phân định giai cấp trong cải cách ruộng đất theo chỉ tiêu, tỉ lệ do cố vấn Trung Hoa áp đặt và theo cảm tính yêu ghét của cốt cán là những người bần cùng trong xã hội, trong lòng luôn mang nặng đố kị, hằn học giai cấp. Thế là hàng loạt trung nông có chút bát ăn bát để đã mang cả tính mạng, của cải, tài trí ra cống hiến cho cách mạng liền bị đội cải cách qui kết là địa chủ, cường hào, gian ác, kẻ thù giai cấp của cách mạng! Họ không có tội thì đội cải cách sẽ tạo ra tội cho họ! Những người cùng khổ, đầy hằn học, đố kị người có của, những cốt cán không có tri thức phần lớn mù chữ được kích động về lòng căm thù giai cấp nhảy lên đài đấu tố. Càng xưng xưng đơm đặt ra nhiều tội cho kẻ bị đấu tố thì càng có thành tích, càng có thù giai cấp, càng được tin cậy, càng thăng tiến! Người nông dân Việt Nam vốn chân chất, hiền lành, bao dung mà lòng bao dung là bản tính của dân tộc nhỏ bé tồn tại bằng thương yêu đùm bọc. Bao dung là thế ứng xử của con người sống hòa thuận trong tình làng nghĩa xóm. Bao dung nhường nhịn là điều ông bà cha mẹ dạy con cháu trước hết, là câu nói hàng ngày đã trở thành tục ngữ dân gian: Năm bỏ làm ba, chín bỏ làm mười. Một điều nhịn, chín điều lành... Đến cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất, Người nông dân hiền lành, bao dung, nhường nhịn ngày nào, bị liều thuốc độc đấu tranh giai cấp kích động, bỗng như có ma nhập, trở nên hung hãn, sắt máu, gian dối, điêu toa, nhỏ nhen, độc ác và sự gian dối, độc ác đã làm chủ đấu trường đấu tố, làm nên tội trạng cho người bị đấu tố, dẫn đến những bản án tử hình nhanh chóng, đơn giản!
Trong cải cách ruộng đất, số phận hơn chục triệu nông dân miền Bắc Việt Nam được quyết định bởi hai thế lực: Những cố vấn Trung Hoa âm thầm chỉ đạo, phán quyết ở phía sau và những người cùng khổ gào thét trên đài đấu tố! Hàng trăm ngàn nông dân lao động lương thiện tạo ra cuộc sống ổn định, bền vững cho làng quê, những người đã hiến dâng cả của cải, tính mạng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, những tâm hồn trong sáng, đẹp đẽ đã sáng tạo và gìn giữ kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc Việt Nam, những người nông dân cao quí đó bị điệu lên đài đấu tố trở thành những tên địa chủ có nợ máu phải nhận tội chết bởi những tòa án mông muội không xét xử theo luật vì không có luật và cũng không cần luật mà xử theo chỉ đạo của cố vấn Trung Hoa và theo cảm tính của những cốt cán. Đấu trường đấu tố đã phơi bày sự khốn cùng về nhân cách của lớp người khốn cùng về kinh tế được đưa lên chủ thể xã hội từ cải cách ruộng đất! Và ngón đòn đấu tố hiểm độc trở thành quen thuộc trong sinh hoạt chính trị lớn nhỏ, được sử dụng thường xuyên đến tận hôm nay!
(còn tiếp)

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"