TT Ngô Đình Diệm: Lịch sử sẽ trả lại sự thật, danh dự và công bằng cho ngài
Kể từ sau hiệp định Genève 54 chia đôi đất nước giữa
Pháp và chính quyền cộng sản Hà Nội . Cuộc chia đôi đất nước đẫm máu đầy
bi thương của dân tộc ! Miền Bắc thuộc quyền cai trị của nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa , tức là thuộc về cộng sản . Còn miền Nam thuộc về Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH ), tức là thuộc về thế giới tự do .
Như mọi người đều biết , VNCH có nền Đệ I và Đệ II Cộng hòa. Đệ I
Cộng hòa được thành lập vào ngày 07 / 07 / 1954 do Chí sĩ Ngô Đình Diệm
bôn ba từ hải ngoại về nước sáng lập và lãnh đạo. Ông được dân chúng
miền Nam từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mâu bầu lên, bằng một cuộc tổng tuyển
cử tự do đầu phiếu làm Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ I của nước Việt
Nam Cộng Hòa cho đến ngày Tổng thống Ngô Đình Diệm bị Hội Đồng Quân
Nhân Cách Mạng lật đổ ngày 01-11-1963.
Sau đó Đệ II Cộng hòa được thành lập cho đến ngày miền Nam rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt .
Đây là một bước ngoặt đánh dấu cho một nền dân chủ đầu tiên của dân
tộc, chấm dứt chế độ độc tài phong kiến cai trị đất nước cả hàng nghìn
năm và một trăm năm đô hộ của người Pháp.
Sau khi hiệp định Genève 54 có hiệu lực. Một làn sóng người di cư tị
nạn Cộng sản vĩ đại từ miền Bắc tràn qua sông Bến Hải xuống miền Nam
Việt Nam. Đó là một cuộc di cư lánh nạn lớn nhất trong lịch sử, kể từ
khi lập quốc. Hơn 1 triệu người từ bỏ tài sản nhà cửa ruộng vườn để đi
vào Nam tìm tự do no ấm .
Trước đó những người dân miền Bắc đã sống trong vùng Việt Minh kiểm
soát. Họ đã hiểu thế nào là Cộng sản. Thế nào là độc tài sắt máu. Thế
nào là sự lừa bịp mị dân. Họ đã từng chứng kiến những cuộc đấu tố dã
man. Con tố cáo cha, vợ tố cáo chồng. Những cuộc ám sát thủ tiêu bí mật.
Những vụ thanh trừng bắn giết để tiêu diệt các đảng phái yêu nước đối
lập như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng… những người
không chịu đứng chung trong hàng ngũ với Cộng sản. Tôn giáo được coi là
mê tín dị đoan phải xóa bỏ. Chỉ có Bác và Đảng là trên hết .
Cả một xã hội bị ly tán và phân hóa chia rẽ giầu nghèo, người ta gây
căm thù giữa hàng ngũ địa chủ và nông dân khiến họ xâu xé, tố khổ lẫn
nhau , kể từ khi chính quyền của cái gọi là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thành lập từ mùa Thu năm 45. Mà người Cộng sản thường gọi là Cách
mạng tháng 8.
Sau này khi đã lớn khôn , tôi được nghe mẹ kể lại những hệ lụy do
cuộc Cách mạng tháng 8 mang lại những bi thương khổ ải cho cả đất nước
và dân tộc. Đó cũng là sự nhức nhối ray rức, không chỉ riêng của người
viết, mà là với mọi người Việt Nam yêu nước. Đó cũng là động cơ khiến
người viết làm nên một bài thơ đã lâu. Nhân đây muốn xin được chia sẻ
với bạn đọc. Bài thơ có tên là Một Chiều Thu Ấy như sau:
Có một ngày đã xa còn đó
Quên làm sao vết sẹo nghìn đời
Thân ngã sấp cõng hồn tím lặng
Vách núi sầu lãng đãng trời mây
Giữa ngọ dìm ngày không níu được
Thuyền không neo Trời nước mênh mông
Cứ lênh đênh từ đó tang bồng
Quên làm sao vết sẹo nghìn đời
Thân ngã sấp cõng hồn tím lặng
Vách núi sầu lãng đãng trời mây
Giữa ngọ dìm ngày không níu được
Thuyền không neo Trời nước mênh mông
Cứ lênh đênh từ đó tang bồng
Mẹ đứng khóc một chiều Thu ấy
Chưa mừng vui đã vội hao gầy
Kể từ đó tương tàn cốt nhục
Bắc Nam Trung chìm ngập đạn bom
Biết hận thù khi nao xóa được
Chảy biển Đông ngập máu chia lìa
Chưa mừng vui đã vội hao gầy
Kể từ đó tương tàn cốt nhục
Bắc Nam Trung chìm ngập đạn bom
Biết hận thù khi nao xóa được
Chảy biển Đông ngập máu chia lìa
Như chim Yến mỗi ngày thổ máu
Dán đời mình vách đá điêu linh
Ôm trần gian trợn tròn hai mắt
Đá xám đen nghẹn uất chiêm bao
Dán đời mình vách đá điêu linh
Ôm trần gian trợn tròn hai mắt
Đá xám đen nghẹn uất chiêm bao
Mùa Thu vàng xác người ướp lá
Nuốt âm thầm lênh láng đau thương
Trách làm chi Trời chập âm dương
Trụ lại thành con người vật vã
Trên trần gian chắp cánh vô thường
Nuốt âm thầm lênh láng đau thương
Trách làm chi Trời chập âm dương
Trụ lại thành con người vật vã
Trên trần gian chắp cánh vô thường
Nghe gió thổi rơi vào nghìn kiếp
Vàng rộm hong một chiếc lá bay
Xin ngàn sau thôi trở lại nơi này
Nhưng Trời hỡi ! Đất này tôi yêu quá.
Vàng rộm hong một chiếc lá bay
Xin ngàn sau thôi trở lại nơi này
Nhưng Trời hỡi ! Đất này tôi yêu quá.
Từ khi hiệp định Genève được hai bên ký kết, khắp miền quê xa xôi hẻo
lánh đến các thành phố lớn nhỏ, đồng bào xôn xao bàn tán về chuyện di
cư vào Nam. Nhất là đồng bào theo đạo Công giáo. Người ta loan truyền có
“tầu há mồm khổng lồ” của Mỹ tới các hải cảng để đón rước đồng bào.
Thế là dân chúng lũ lượt về thu xếp gia đình, bồng bế nhau già trẻ lớn
bé chạyï trốn. Bất kể đe dọa, bắt bớ lẫn phủ dụ tuyên truyền. Cán bộ
Việt Minh khuyên lơn đồng bào ở lại. Họ nói, “bây giờ đất nước đã được
hòa bình độc lập rồi hãy ở lại làm ăn, đừng nghe theo đi làm tay sai cho
địch” !
Theo nguyên tắc trong văn bản hiệp ước qui định, người dân Việt Nam
có quyền ai muốn sinh sống ở đâu, thì được tự do lựa chọn. Nghĩa là ai
theo Bác và Đảng thì ở lại miền Bắc. Còn ai yêu quí tự do dân chủ thì đi
vào miền Nam sinh sống. Nhưng đó chỉ là trên văn bản giấy tờ, còn trên
thực tế thì chính quyền Bắc Việt ra sức ngăn cấm. Nên ở các vùng xa xôi
hẻo lánh, ai muốn đi tìm tự do ở miền Nam thì phải lén lút lẩn trốn. Họ
chỉ tiết lộ tin tức ra đi cho những người thân quen và bạn bè với nhau
mà thôi. Ngoài ra tất cả phải giữ bí mật. Nếu không muốn bị ngăn cản
hay bị bắt giữ.
Cuộc di cư của hơn 1 triệu người miền Bắc lánh nạn Cộng sản vĩ đại
nhất, từ trước đến nay ở Việt Nam như đã nói. Công lao lớn nhất phải
được nhắc đến, là của anh em trong gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Suốt thời gian còn ở Hoa Kỳ chuẩn bị về nước chấp chánh lãnh đạo đất
nước, Chí sĩ họ Ngô đã vận động trong khối Thế giới tự do, đặc biệt là
sự giúp đỡ to lớn về tài chính, lương thực,thực phẩm các phương tiện vận
chuyển của chính phủ Mỹ và giáo hội Công giáo Vatican đối với người tỵ
nạn Cộng sản. Ân nhân của những người di cư tỵ nạn cụ thể nếu không
được nói đến là một điều thiếu sót, là Đức Hồng y giáo chủ Spellman của
Hoa Kỳ.
Những người tỵ nạn sau khi được các phương tiện đưa tới Sài gòn. Họ
được tập trung vào các trại tạm cư, được giúp đỡ phương tiện chuyên
chở, tiền bạc, thực phẩm thuốc men một thời gian dài, rồi sau đó họ được
đưa về các nơi ruộng đồng phì nhiêu để định cư, tạo dựng cuộc sống mới.
Những địa danh sau này nổi tiếng như vùng Cái Sắn Rạch Giá, Hố Nai, Gia
Kiệm, Phương Lâm, Blao Bảo Lộc… không một người miền Nam nào là không
biết đến .
Suốt 9 năm cầm quyền lãnh đạo miền Nam Việt Nam của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm, người dân có dịp sống trong thời gian đó và sống trong thời
gian nhiễu nhương của các Tướng lãnh cầm quyền sau này. Khi chế độ Đệ I
Cộng hòa bị lật đổ, người ta mới vô cùng tiếc nuối một vị lãnh đạo yêu
nước, đức độ tài ba có một tinh thần độc lập quốc gia dân tộc, rất đáng
kính trọng .
Ông đã bị một số Tướng lãnh thuộc hạ thân tín, cam tâm nhận tiền bạc,
và bị mua chuộc của ngoại bang phản bội. Dưới chiêu bài, lật đổ Chế độ
độc tài gia đình trị nhà Ngô, vào ngày 01-11-1963, cả hai anh em ông là
Cố vấn Ngô Đình Nhu đều bị sát hại một cách thê thảm .
Sau hiệp định Genève 1954, khi ông Ngô Đình Diệm được Hoàng Đế Bảo
Đại mời về làm Thủ tướng, công việc của ông lúc đầu thật là khó khăn đầy
gian nan vất vả. Chính phủ của ông vừa được thành lập chân ướt chân
ráo, ngoài việc tìm những nhân tài yêu nước, có tinh thần quốc gia dân
chủ tham gia vào trong Nội các, Quân độI, chính phủ còn phải đối phó
với những Đảng phái đội lốt tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên.
Mỗi đảng phái chiếm cứ một vùng để kiểm soát sách nhiễu dân chúng. Những
đảng cướp khác cũng nổi lên khắp nơi như hồi Thập Nhị Sứ Quân thời
Đinh Bộ Lĩnh, chúng hà hiếp cướp bóc dân chúng , rất khó khăn cho việc
ổn định an ninh trật tự. Đó là chưa kể đến sự phá hoại của phía Cộng
sản Bắc Việt còn cài Quân đội và tình báo ở lại để đánh phá gây rối loạn
cho miền Nam Việt Nam . Trong khi chính quyền còn phải lo xây dựng tổ
chức một thể chế chính trị, như tổ chức Trưng cầu dân ý, Tổng tuyển cử
bầu ra tổng thống, quốc hội Lập Hiến. Củng cố chính quyền và Quân đội
được bàn giao từ phía chính quyền cũ do người Pháp thành lập theo hiệp
định Genève qui định .
Kể từ tháng 8 năm 1945 khi Việt Minh chiếm được chính quyền từ tay
thực dân Pháp , cho đến ngày miền Nam bị mất về tay Cộng sản 30-04-1975 .
Dưới thời chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm , đời sống dân chúng
rất là sung túc và thịnh vượng . Trong những năm đó đất nước có thể nói
được là thanh bình an vui , sau vài năm giặc giã loạn lạc cướp bóc được
quét sạch do hậu quả của chế độ thực dân phong kiến để lại .
Chưa có thời gian nào kinh tế của đất nước lại được độc lập và ổn
định như vậy. Người dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có tiếng là làm
chơi ăn thật, vì đất đai ruộng đồng phì nhiêu bát ngát, thẳng cánh cò
bay, nông dân canh tác không hết. Sông rạch thì tôm cá rất nhiều, bắt
không xuể. Ở những miền quê khắp nơi đời sống thanh bình êm ả, nông dân
ăn nhậu, đàn hát thâu đêm suốt sáng . Họ không phải lo toan đến cái ăn
cái mặc. Cuộc sống tuy phải lam lũ với ruộng đồng , nhưng tinh thần thì
rất là thoải mái , sự vô tư và tánh tình mộc mạc chất phát càng làm cho
người nông dân Nam Bộ dễ gần , dễ mến hơn .
Ngày đó nền kinh tế của miền Nam rất là thịnh vượng. Đồng tiền Việt
Nam rất là có giá trị. Người ta có thể xé đôi tờ bạc 1 đồng ra để mua
bán, chi tiêu. Vì con cá, mớ rau được tính từ xu, từ cắc. Muốn rủ bạn đi
ăn tô phở chỉ tốn có dăm sáu đồng bạc. Rồi cho đến những năm cuối thập
niên 60, tình hình chiến sự ngày càng tồi tệ, do miền Bắc cho quân xâm
nhập vào miền Nam, mỗi lúc mỗi gia tăng. Lúc đó chính phủ Mỹ nôn nóng
muốn gửi quân sang can thiệp để giải quyết cuộc chiến cho mau lẹ. Biết
được ý định đó của Mỹ, chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ chấp thuận cho cố vấn
Mỹ ở miền Nam và phản đối việc Mỹ đem quân chính quy sang tham chiến
trực tiếp ở miền Nam Việt Nam .
Vào cuối những năm thập niên 60 người ta bàn tán , đồn đoán là ông
Diệm đã bí mật cho người tiếp xúc với chính quyền Hà Nội để thương
thuyết hòa giải giữa người Việt Nam với nhau. Sau này sự việc đổ bể
không thành, khiến người Mỹ tức giận nên họ đã quyết định mượn tay các
Tướng lãnh sát hại và lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm
vào ngày 01-11-1963 .
Trong thời gian 9 năm cầm quyền của Chính phủ Ngô Đình Diệm, những
đảng phái đối lập cho rằng, Chính phủ của Tổng thống họ Ngô là độc tài
gia đình trị, kỳ thị tôn giáo. Vì trong chính phủ có ông Ngô Đình Nhu là
Cố vấn Chính trị , bà Trần Lệ Xuân vợ của Cố vấn Ngô Đình Nhu là chủ
tịch Hội Phụ Nữ Liên Đới. Ông Ngô Đình Cẩn là bào đệ của Tổng thống được
cử giữ chức Cố vấn đặc trách miền Trung Nam phần. Ông Ngô Đình Luyện là
Đại sứ Việt Nam ở Anh quốc. Tổng Giám mục Ngô Đình Thục làm Tổng Giám
mục Giáo phận Huế. Ông Trần Trung Dung cháu gọi Tổng thống Diệm là cậu
được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng….
Hồi đó phong trào chống đối mạnh nhất và dữ dội nhất phải kể, là của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Rồi của Sinh viên Học sinh các
trường Đại học Trung học do Cộng sản đứng sau lãnh đạo giật dây. Lực
lượng Thanh Sinh Công do các Linh mục Cấp tiến dòng Chúa Cứu Thế lãnh
đạo.
Họ cho rằng Chính quyền Ngô Đình Diệm dành ưu đãi cho Giáo hội Công
giáo như giúp đỡ xây dựng nhiều nhà thờ, các cơ sở Tôn giáo, Trường
học… Đề bạt người Công giáo vào các chức vụ then chốt, và kỳ thị các tôn
giáo khác, nhất là Phật giáo.
Có dư luận cho rằng những viên chức trong Chính phủ và Quân đội muốn
được đề bạt từ cấp Tỉnh trưởng trở lên phải là người có đạo Công giáo.
Nên hồi đó đa số Tướng Tá theo đạo Công giáo. Rồi sau ngày Đảo chính
01-11-63 khi Chế độ ông Diệm không còn, họ âm thầm bỏ đạo.
Người ta còn nhớ hầu hết những Tướng Tá, viên chức Chính phủ khúm
núm nịnh bợ gia đình họ Ngô một cách thái quá. Thường trong cách xưng hô
mỗi ngày khi vào yết kiến hay tiếp xúc, họ gọi ông Ngô Đình Diệm bằng
cụ và xưng con. Gọi Ngô Đình Cẩn bằng Cậu cũng xưng con, tuy có người
bằng tuổi hay hơn cả tuổi ông Cẩn !
Suy cho cùng Chế độ của Tổng thống Ngô Đình diệm bị sụp đổ và anh em
ông bị giết thảm, ngoài bàn tay lông lá của ngoại bang ra, phần nào cũng
là do những viên chức, tay chân trong Chính quyền bợ đỡ quá mức làm hại
đất nước và gia đình ông.
*
Suốt một quãng thời gian khá dài, hơn 46 năm nhìn lại lịch sử cận
đại Việt Nam. Trong hàng ngũ lãnh đạo. Người ta có thể bình tâm khách
quan, phần nào đánh giá tư cách, công và tội của những vị đó. Sử sách
đã nói rất nhiều thiết nghĩ không tiện viện dẫn ra đây.
Riêng cá nhân của Tổng thống Ngô Đình Diệm, kể từ khi bị lật đổ và bị
giết cho đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Tư cách và đạo đức của
một nhà lãnh đạo, chúng ta chưa thấy ai vạch ra những vết nhơ bẩn thỉu
vấy trên người ông. Ngay cả những thế lực căm thù chống đối ông và Chế
độ. Thí dụ: như tham nhũng, hối lộ, ăn cắp của công, tiền bạc gửi ở ngân
hàng ngoại quốc, dinh thự chỗ nọ chỗ kia, vợ lớn vợ bé, làm tay sai cho
ngoại bang phản bội lại quyền lợi của đất nước của dân tộc v.v… Tuyệt
nhiên không có ai nói tới. Mà nhiều người giúp việc hay thân cận đã nói
về đức độ, đời sống sinh hoạt thường ngày trong suốt cuộc đời gương mẫu
của Ngài Tổng thống.
Hầu hết các Tướng lãnh tham gia vào việc hãm hại và lật đổ ông, sau này đã hối hận, có người đã cạo trọc đầu tu tập để sám hối .
Ngô Đình Diệm xuất thân trong một gia đình quan lại phong kiến. Bản
thân ông là một quan Thượng Thư Bộ Lại. Sau này được cử làm Thủ tướng
Chính Phủ, nhưng ông đã có công xây dựng nền Đệ I Cộng hòa đầu tiên cho
Việt Nam tự do dân chủ. Chứ không thiết lập một nền quân chủ độc tài
phong kiến để vinh thân phì gia, vinh hoa phú quí như những vua chúa
trước đây. Thiết nghĩ đó đã là một nhân cách phi thường ít người nắm
được quyền hành có được.
Hiểu như thế chúng ta lớp hậu sinh sau này, có thể thông cảm cho hoàn
cảnh một đất nước, một Chí sĩ chân ướt chân ráo, mới bước chân đưa đất
nước vào học tập để xây dựng một nền dân chủ đầu tiên cho Việt Nam mà
trước đó đất nước đã hình thành hàng ngàn năm vua quan phong kiến. Và
mới vừa thoát ra khỏi ách nô lệ Pháp thuộc một trăm năm không khỏi có
những khiếm khuyết hoặc sai lầm. Lại phải đối phó với những thế lực
ngoại bang áp đặt những điều kiện có nguy hại đến chủ quyền và quyền lợi
đất nước .
Công và tội của Chính phủ Ngô Đình Diệm, chúng ta phải bình tĩnh chờ đợi lịch sử sau này phán xét.
MỘT CẢM NGHĨ THẬT VỀ ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Ông Ngô Đình Diệm thực chất là con người yêu nước. Nhưng nói yêu nước
thì có cả triệu người, không cứ chỉ một ông Diệm. Nhưng hoàn cảnh bản
thân ông Diệm khác, những người yêu nước khác lại khác, chưa chắc có
được hoàn cảnh thuận lợi như ông. Ông Diệm học trường hậu bổ ra, là để
đi làm quan. Đó là thời thế và điều kiện bản thân đã thật sự chuẩn bị
trước cho ông. Và quả nhiên, khi ra trường ông đã có điều kiện làm quan
thành công, cũng phần nào nhờ bản chất tốt đẹp, năng lực và sự hiểu biết
về hành chánh quản lý của ông. Trong hoàn cảnh xã hội lúc đó, ông Diệm
không thể có con đường lựa chọn nào khác. Bởi không thể biểu ông làm nhà
cách mạng bạo động hay tảy chay Pháp hoặc Nam triều băng mọi giá. Ông
chỉ là người bình thường, gặp thời thế thế thời phải thế. Vấn đề là tấm
lòng, là cái tâm yêu nước vốn có, không phải là sự biểu hiện hay thể lộ
ra một cách miễn cưỡng hoặc giả tạo. Không thể đứng ý nghĩa người nay để
đánh giá, kết luận về người khác. Vấn đề chính còn là ông là người công
giáo, nhưng lại là người yêu nước theo tinh thần Khổng Mạnh cổ điển,
truyền thống. Đó là nét nổi bật đáng kính, đáng yêu, đáng mến của ông.
Thực tế ông Diệm vì thế mà không hợp tác với người Nhật, hay ông đã ngấm
ngầm chống Nhât. Nếu so ông Diệm với ông Trần Trọng Kim, cũng không nên
nặng ông nào mà nhẹ ông nào, trọng ông nào hay khinh ông nào. Bởi vì
cùng hoàn cảnh, nhưng điều kiện, cá tính và cơ hội làm việc lịch sử của
hai ông thật sự khác nhau. Ông Trần Trọng Kim thất bại trước thời cuộc,
nhưng không phải vì thế mà ông bị đánh giá thấp hay đáng chê. Ông Ngô
Đình Diệm tuy lúc đầu cũng phải chịu lùi trước hoàn cảnh, nhưng quả thật
cơ hội lịch sử đã không tửng bỏ ông. Cho nên, nói đến hai ông Trần
Trọng Kim và Ngô Đình Diệm, cũng không thể không nói đến ông Hồ Chí
Minh. Ông Hồ quả nhiên là một nhà cách mạng quốc tế cộng sản. Còn ông
Kim, ông Diệm quả là hai nhà yêu nước theo tư tưởng dân tộc kiểu tư sản.
Thật ra, nếu ông Hồ Chí Minh không có hậu thuẩn của cách mạng cộng sản
quốc tế khi đó, cũng chưa chắc đã thành một nhân vật lịch sử nổi cợm. Cả
hai ông Trần Trọng Kim và Ngô Đình Diệm không nhờ sự ủy thác của Hoàng
đế Bảo Đại mà đứng ra lập chính quyền quốc gia không cộng sản khi đó,
cũng chưa chắc đã thành những nhân vật lịch sử nổi tiếng hay quan trọng.
Như vậy, những người theo ông Hồ và theo ông Diệm sau này cũng đều thứ
yếu. Bởi nếu không có hai gã khổng lồ đầu đàn dẫn đắt, các loại tép riu
đàn em về sau thật sự cũng khó có vị trí trò trống gì. Chỉ nói bao quát
như vậy để thấy nhân vật lịch sử và hoàn cảnh lịch sử tương ứng với nhau
như thế nào thôi. Còn điều đáng nói nữa, hoàn cảnh VN khi đó đã rơi vào
thế tranh chấp quốc cộng trên toàn thế giới, trong khu vực, cũng như
trong nước. Cho nên hiện tượng Hồ Chí Minh và hiện tượng Ngô Đình Diệm
cũng là con đẻ của lịch sử thế giới và lịch sử đất nước trong thời buổi
và hoàn cảnh cụ thể lúc đó mà thôi. Người xưa nói người tuấn kiệt phải
biết thời vụ. Còn hạng bình dân hay hạng điếu đóm tôn bên này, chưởi bới
bên kia, tung hô người này, đả đảo người nọ, thì kể làm gì. Cho nên
chuyện ông Diệm đi với Mỹ, còn ông Hồ đi với Liên xô, Trung quốc, và thế
giới CS thì cũng là việc đại tượng của lịch sử được phân tuyến vào lúc
ấy mà thôi. Cũng chính trong ý nghĩa phải đương đầu lẫn nhau như thế, mà
thực chất ông Hồ phải có chế độ toàn trị ở miền Bắc, và ông Diệm lại có
chế độ được coi là độc tài tại miền Nam. Bởi vì nếu không có chế độ
kiểu ông Hồ ở miền Bắc, cũng chưa chắc đã có kiểu chế độ của ông Diệm ở
miền Nam. Còn những trò lăng nhăng đả đảo ông Diệm, hoan hô ông Hồ lúc
đó, của những người khuynh tả đủ loại mà ai cũng biết, cũng phần lớn đều
là tay chân giấu mặt của ông ông Hồ lúc đó. Còn ngược lại, những người
nâng bi ông Diệm, đả đảo ông Hồ, hay chống cộng kiểu cảm tính, cũng chưa
chắc phần lớn đã có lý tưởng quốc gia thật như ông Diệm mong muốn. Có
điều quan trọng nữa, có phải ông Diệm phản bội Bảo Đại khi truất phế vị
quốc trưởng này hay không ? Nếu hiểu theo nghĩa tầm thường thì đúng là
như vậy. Nhưng nếu hiểu theo cương vị của ông Diệm lúc đó, chẳng qua ông
Diệm muốn biến miền nam VN thành một quốc gia theo kiểu tổng thống chế,
dân chủ, tự do, tư sản theo kiểu Mỹ, nhằm ngược lại với chế độ CS của
ông Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Tất nhiên, ông Diệm, ông Nhu có lẽ chưa có
chính sách nào cụ thể để chống lại ông Hồ ở miền Bắc. Nhưng ông Hồ ngược
lại ngay từ đầu, đã có thể có những sách lược nhằm triệt hạ ông Diệm ở
miền Nam. Việc ông Diệm bị lật đổ năm 1963, sau đó là một loạt các chính
phủ quân nhân võ biền tại miền Nam, không ngoài là thế bị động của ông
Diệm trước MTGPMN của ông Nguyễn Hữu Thọ, mà thực chất chỉ là môn đệ đàn
em của ông Hồ Chí Minh mà thôi. Đả đảo, lên Mỹ Ngụy, đúng ra thực chất
chỉ là phương thức chính chị khôn khéo để nhằm thực hiện cho được suông
sẻ, tiện lợi cuộc cách mạng cộng sản tại miền Nam thế thôi. Thế nên,
thực chất việc Mỹ nhảy vào miền Nam sau khi ông Diệm bị giết là một tai
hại của Mỹ, tai hại cho VN nói chung, nhưng là điều kiện để ông Hồ chiến
thắng trên toàn đất nước VN sau khi ông qua đời năm 1968. Đấy lịch sử
thực chất là thế, và mọi khía cạnh râu ria khác nhau của lịch sử đích
thực cũng chỉ như thế. Nói như vậy, chỉ có những người đúng nghĩa là cán
bộ cộng sản, thì mới nhao nhao lên phản đối, cho là nói bậy, còn những
người VN nào không cộng sản, tất nhiên phải thừa nhận đó là cách nói
trung thực của một con người VN, với dân tộc tính và quan điểm dân tộc
đúng nghĩa, mà không đảng phái, và cũng không thuộc bất kỳ những khuynh
hướng chính trị nào chỉ có tính cách nhất thời và trước mắt cả.
Võ Hưng Thanh
(29/8/11)
(29/8/11)