Phạm Hồng Sơn
Cách đây ít hôm một bài viết có nhan đề “Thoát Trung Luận” của
tác giả Giáp Văn Dương đã được đăng tải trên nhiều trang mạng phi nhà
nước. Tác giả Giáp Văn Dương đã đề cập đến một vấn đề không chỉ có tính
thời sự mà còn có tính chiến lược cho sự phát triển của đất nước Việt
Nam: “Cần thoát khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc!” Như tác giả
nhận định, quan điểm vừa nêu phần lớn mới chỉ được nhiều người thể hiện ở
mức “trực giác”, chưa có tính “hệ thống” hay “mạch lạc”. Tiếp theo, tác
giả trình bày cơ sở lý luận của mình cho quan điểm “Thoát Trung” đó, có
thể tóm tắt làm hai ý chính: phần 1: tác giả chứng minh “Thoát Trung”
đã là ý muốn của tổ tiên ta từ xa xưa; phần 2: tác giả mô tả sự phụ
thuộc, rập khuôn tai hại hiện nay của Việt Nam vào Trung Quốc ở nhiều
lĩnh vực và cuối cùng tác giả đưa ra lời kêu gọi “Thoát Trung hay là
chết” như tổ tiên đã ra lệnh.
Tuy nhiên toàn bộ bài viết “Thoát Trung Luận” của Giáp Văn Dương vẫn
cho thấy tác giả chủ yếu dựa vào sự nhiệt huyết dân tộc và cảm tình với
tổ quốc để chứng minh cho một quan điểm hơn là dựa vào các cứ liệu hay
tư duy hệ thống. Sau đây là vài điểm minh họa cho nhận định này:
Giáp Văn Dương viết: “Khi còn nhỏ, tôi đã
từng ngạc nhiên khi đọc bài hịch của vua Quang Trung khích lệ tướng sĩ
trước khi ra trận: “Đánh cho để dài tóc. Đánh cho để răng đen…”. Tôi đã
tự hỏi, vì sao nhà Vua không chọn những biểu tượng lớn lao hơn mà lại
chọn những điều nhỏ nhặt như vậy để động viên quân sĩ ? Nhưng càng ngày
tôi càng thấm thía : Đó là lòng kiên định của tổ tiên nhằm thoát khỏi
vòng kiềm tỏa của nền văn hóa Trung Hoa, ngay từ những việc nhỏ nhất.”
Việc chỉ căn cứ vào lời nói của một ông vua trong cả một lịch sử hàng
ngàn năm để kết luận đó là “lòng kiên định của tổ tiên” thì đó là một
suy diễn quá xa và yếu ớt trong nghiên cứu lịch sử. Hơn nữa một “nền văn
hóa” không chỉ thể hiện hay kết tụ ở kiểu tóc hay màu răng. Dĩ nhiên
chữ “tóc” và “răng” trong lời hiệu triệu của Quang Trung có thể chỉ có
tính biểu tượng nhưng nếu ta quá câu nệ vào đó thì sẽ dễ làm cho chúng
ta quên mất cái hệ lụy quan trọng nhất của một sự ảnh hưởng của văn hóa
không phải là những thứ hữu hình mà là những giá trị vô hình – cách tư
duy.
Giáp Văn Dương viết tiếp phần trên: “Ý
thức vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này là thường trực. Tuy nhiều lúc bị
chao đảo bởi sự tấn công mạnh mẽ đến từ phương Bắc, nhưng mỗi khi cần
đến thì ý thức vùng thoát này lại bùng lên dữ dội.”
Ở đây tác giả lại tiếp tục suy diễn quá xa theo kiểu khẳng định đồng
nhất ý muốn của các triều đại phong kiến Việt Nam. Nhìn vào trường lịch
sử của Việt Nam thì đúng ra là mọi triều đại phong kiến Việt Nam chỉ
thường trực ý thức cảnh giác với ý đồ xâm lược từ phương Bắc. Và thường
mỗi khi bị phương Bắc xâm lược thì các triều đại phong kiến Việt Nam có
phản ứng chống lại một bộ phận văn hóa phương Bắc như một biện pháp
tuyên truyền để cổ xúy tinh thần chống ngoại xâm hơn là ý thức thoát
khỏi ảnh hưởng văn hóa của Trung Quốc một cách cơ bản. Một bằng cớ rõ
ràng là Văn Miếu (nơi thờ Khổng Tử - một biểu tượng và là một trong
những tác giả lớn của nền văn hóa Trung Quốc) vẫn luôn được bảo vệ và
tôn tạo từ đời Lý Thánh Tông trở về sau.
Tiếp theo Giáp Văn Dương đưa ra thêm một số
cứ liệu minh chứng cho tinh thần “Thoát Trung” của tổ tiên chúng ta như
vấn đề chữ viết, tên nước:
+ “Nỗ lực xây dựng chữ viết riêng cho dân tộc như chữ Nôm của cha ông.” (Giáp Văn Dương)
Thực ra chữ Nôm cũng chỉ là một phó bản kém của chữ Hán. Vấn đề
“Thoát Trung” điều quan trọng không phải là từ bỏ một cách manh mún
những sản phẩm hay công cụ văn hóa của Trung Quốc mà phải là nhận ra
những điểm yếu, lạc hậu, cản trở của nền văn hóa đó đối với sự phát
triển và phải xây hoặc tìm lấy được những giá trị văn hóa tiến bộ hơn.
+ “, và gần đây nhất là việc toàn dân
đồng loạt chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, là minh chứng rõ ràng cho sự
vùng thoát khỏi vòng kiềm tỏa này.” (Giáp Văn Dương)
Thực tế đây chỉ là một phản ứng thụ động của sự biến đổi do những
người ở phương Tây đem lại và nếu là ý thức chủ động thoát khỏi phương
Bắc thì cũng chỉ của một bộ phận nhỏ của sĩ phu đương thời (đã có tiếp
cận với văn hóa phương Tây) mà thôi.
+ “Riêng với việc chuyển sang sử dụng chữ quốc ngữ, có thể nói, đây là một cuộc thoát Trung ngoạn mục.” (Giáp Văn Dương)
Chữ quốc ngữ chỉ là một yếu tố, một điều kiện thuận lợi cho việc rời
xa văn hóa Trung Quốc mà thôi. Thực tế đã cho thấy hai Việt Nam (Bắc và
Nam từ 1954-1975) cùng sử dụng chữ quốc ngữ nhưng miền Bắc lại gần như
hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc.
+ “Thành quả của nó thật đáng nể: Số
người biết đọc biết viết tăng lên gấp bội, số lượng văn bản sử dụng chữ
quốc ngữ chỉ trong một thời gian ngắn đã tăng lên gấp nhiều lần so với
số văn bản chữ Nho của toàn bộ lịch sử nước ta trước đó.” (Giáp Văn Dương)
Điều này lẽ ra phải ghi nhận cho tính chất dễ sử dụng, dễ truyền bá của chữ quốc ngữ hơn là ý thức thoát Trung của người Việt.
+ “Cũng chính nhờ chữ quốc ngữ mà về mặt
hình thức, ngôn ngữ của chúng ta đã thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tiếng
Hán. Tỷ như đến giờ phút này, nước Việt ta vẫn dùng chữ Nho để viết và
giao tiếp với thế giới, thì đối với họ, ta có khác nào một quận huyện
của Trung Quốc? Ta sẽ gặp khó trong việc thuyết phục họ rằng, ta là một
quốc gia độc lập, có ngôn ngữ và văn hóa riêng.” (Giáp Văn Dương)
Nhật bản và Hàn quốc, thậm chí Đài Loan cũng vẫn sử dụng chữ viết
tương tự hay đúng như của Trung Quốc nhưng đâu có trở thành quận huyện
của Trung Quốc và họ cũng đâu có gặp khó khăn trong việc xác định sự độc
lập với Trung Quốc vì vấn đề chữ viết hay văn hóa có nhiều điểm giống
Trung Quốc.
+ “Tên gọi của nước ta cũng không phải là một
sự ngẫu nhiên. Đằng sau mỗi cái tên đều là một lời nhắn nhủ hoặc một
mong đợi sâu thẳm. Ông cha ta đã chọn hai chữ Việt Nam để đặt làm tên
nước.” (Giáp Văn Dương)
Tác giả đã quên mất cứ liệu lịch sử rằng thoạt kỳ thủy vua Gia Long
(tức Nguyễn Ánh) đề nghị với vua triều Thanh của Trung Quốc cho nước ta
lấy tên là Nam Việt. Nhưng vua Trung Quốc lúc đó vì sợ chữ Nam Việt gợi
lại lịch sử trước đây nước Nam Việt (thời Triệu Đà) gồm cả đất Lưỡng
Quảng nên chỉ chuẩn thuận cho tên nước ta là Việt Nam.
+ “Việt Nam có nghĩa là tiến về phương
Nam. Điều này có nghĩa là gì? Chỉ có thể cắt nghĩa: Tiến về phương Nam
để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người phương Bắc. Đó là di lệnh của tổ
tiên cho các thế hệ con cháu người Việt Nam mình.” (Giáp Văn Dương)
Đây lại là một suy diễn quá xa và liều lĩnh.
- Giáp Văn Dương nhận định: “Nhưng điều
không may cho chúng ta là nền văn hóa Trung Hoa có sức ảnh hưởng quá
lớn. Nó như một đại nam châm hút các dân tộc xung quanh về phía mình.
Nên dù luôn có ý thức vùng thoát khỏi ảnh hưởng của người Trung Quốc, dù
đã được cha ông di lệnh kỹ càng, thì lịch sử của Việt Nam luôn là sự
giằng xé giữa hai luồng vận động: Vùng thoát khỏi Trung Quốc và chầu về
Trung Quốc.”
Tác giả tiếp tục dường như quên mất Nhật Bản, Hàn Quốc, kể cả Bắc
Triều Tiên và Đài Loan cũng là các “dân tộc xung quanh” nhưng gần như
tất cả đã không chỉ “Thoát Trung” mà còn vượt hơn cả Trung. Tác giả có
lẽ cũng đã quên mất một nửa nước Việt dưới vĩ tuyến 17 từ 1954-1975 đã
hoàn toàn thoát khỏi Trung Quốc. Và tác giả dường như cố tình quên yếu
tố Đảng Cộng sản Việt Nam/Hồ Chí Minh trong vấn đề phụ thuộc Trung Quốc
của Bắc Việt Nam từ 1950-1975 và của toàn Việt Nam gần như toàn bộ giai
đoạn tiếp theo từ 1975 đến nay.
Trong phần 2, Giáp Văn Dương chủ yếu liệt kê và mô tả thực trạng đất
nước Việt Nam hiện nay bị thâm nhập, lệ thuộc vào Trung Quốc ở hầu khắp
các lĩnh vực (văn hóa, kinh tế, chính trị,…), cùng với thể hiện một cảm
xúc chua xót, đau buồn là chính, hơn là phân tích để vạch ra nguyên nhân
sâu xa và cơ bản của thực trạng đó. Ví dụ, tác giả viết: “Xin hỏi:
Một dân tộc được định hình chính bởi cái gì? Có phải là bởi đất đai, tài
nguyên của dân tộc đó hay không? Chắc hẳn là không. Người ta phân biệt
dân tộc này với dân tộc khác bởi chính văn hóa của nó. Nay văn hóa của
ta đang bị áp đảo mà dân ta lại vui vẻ cổ vũ chấp thuận, thì khác nào
tay ta đã yếu, mắt ta đã chậm mà ta lại tự mua dây về bịt mắt trói tay
mình?”
Có lẽ tác giả không nhận thấy hoặc không chỉ ra một nguyên nhân chính
của thực trạng này chính là chính sách độc quyền về giáo dục, truyền
thông của nhà nước hiện nay.
Hay Giáp Văn Dương nhận định chính xác rằng: “những thói hư tật
xấu này đang tác oai tác quái làm suy đồi văn hóa và đạo đức của ta quá
thể. Bệnh hình thức hư danh, tật khoe khoang thành tích, thói hành dân,
nịnh trên lừa dưới, tệ chạy chức chạy quyền… đã thành phổ biến, nên
không còn cách nào khác là phải dứt bỏ để học những giá trị tiến bộ của
phương Tây như dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, thực học thực nghiệp…
thì mới có thể tiến kịp người.”
Nhưng lẽ ra tác giả cần phải đề cập thêm một vấn nạn nguy hiểm là đã
có nhiều người đang cố gắng truyền bá, cổ xúy những tư tưởng, giá trị
tiến bộ của phương Tây nhưng họ lại có nguy cơ rất cao bị nhà nước hiện
nay kết tội là “thù địch”, “phản động”.
Tóm lại, bài viết “Thoát Trung Luận” của Giáp Văn Dương đã nêu ra một
vấn đề lớn, quan trọng và thiết thực trong tình hình hiện nay nhưng lập
luận của tác giả vẫn chưa thoát khỏi sự chủ quan thường có của những
người có tinh thần yêu nước nồng nàn nhưng chủ yếu chỉ dựa trên tinh
thần tự tôn dân tộc và chỉ đề cập vấn đề với một tình trạng nửa vời. Cổ
xúy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc khi đất nước đang bị đe dọa xâm
lăng là điều quí giá và cần thiết nhưng việc cổ xúy không dựa trên một
tinh thần khách quan, duy lý, triệt để, thì sự cổ xúy đó vô hình chung
lại duy trì hay tiếp tục tạo ra những lối mòn có hại cho một nền văn hóa
vốn đã và đang bị ghìm giữ trong lối suy nghĩ cảm tính, thiên vị, cải
lương – những đặc tính rất có lợi cho những kẻ cầm quyền mỵ dân, độc
tài. Thiết nghĩ, nếu nhìn ở phạm vi ngay trước mắt thì Việt Nam cần phải
xa rời Trung Quốc để hướng đến và thắt chặt với phương Tây, nhưng nếu
nhìn ở phạm vi dài hạn thì vấn đề không phải là “Thoát Trung” hay không
“Thoát Trung” mà vấn đề là đất nước phải có sự sáng suốt, tỉnh táo để
nhận ra được cần phải du nhập cái gì, tránh cái gì hay cần phải đồng
minh với quốc gia nào, giữ khoảng cách với quốc gia nào trong mọi quan
hệ, các mối quan hệ không bao giờ thuần nhất và bất biến, với các quốc
gia, dân tộc khác. Mà để có sự sáng suốt, tỉnh táo đó thì dân chúng và
đặc biệt là giới trí thức phải có suy nghĩ độc lập, khoa học và có khả
năng ảnh hưởng, tham gia vào các quyết định liên quan đến mọi vấn đề của
quốc gia, xã hội. Khi đó mọi vấn đề “thoát” hay “nhập” với bất cứ cái
gì không còn là vấn đề khó khăn, mông lung hay bế tắc nữa. Dĩ nhiên đây
là vấn đề không hề nhỏ hay dễ dàng để một ý kiến có thể đạt được tính
đầy đủ và thuyết phục cho mọi góc cạnh. Vì vậy những góp ý trên đây với
tác giả Giáp Văn Dương cũng chỉ là một nỗ lực nhỏ nhoi với hy vọng cùng
góp thêm vài suy nghĩ nhỏ cho một vấn đề lớn mà tác giả Giáp Văn Dương
đã là người nêu rõ ra trong bối cảnh rối bời và nhiều phần rất lâm nguy
của đất nước hiện nay.
Phạm Hồng Sơn
17/8/2011
17/8/2011