Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2014

Thư viết từ trại giam Xuyên Mộc: Thư 30 (phần 7)

Trằn Huỳnh Duy Thức

Một xã hội phát triển lành mạnh là nơi mà con người có thể đáp ứng lợi ích cho mình mà không xâm phạm đến lợi ích của người khác. Tốt hơn nữa là: muốn có lợi ích cho mình thì cần đáp ứng lợi ích cho nhiều người khác. Mệnh đề này chính là nguyên lý căn bản của Quy luật Kinh tế Thị trường đã được thực chứng hơn 200 năm rồi: “Khi ai cũng được tự do mưu cầu lợi ích cho mình thì người ta sẽ tìm cách đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người khác để làm lợi nhiều nhất cho mình. Và nhờ vậy mà các nhu cầu khác nhau rất phức tạp của mọi người trong xã hội sẽ được tự động đáp ứng, tự động cân bằng với sản xuất và sẽ phát triển ngày một nhiều hơn.”

3/11/2014
Sự bất đồng trong quan điểm về hạn chế nhiều hơn rất nhiều lần so với sự đồng thuận. Nhưng đó mới chính là bản chất thực tế của loài người hay của xã hội. Người ta càng tự do thì sự bất đồng càng lớn, khác biệt càng nhiều. Nhưng đó mới đúng là xã hội của con người. Loài người khác loài vật ở chỗ có ý thức phát triển rất đa dạng, chính sự đa dạng đó làm loài người tiến bộ. Còn loài vật thì có ý thức cực kỳ thấp, gần như không phát triển vì vậy chúng rất dễ dàng đạt được sự đồng thuận tuyệt đối khi sống thành bày đàn – tức là xã hội của chúng. Làm sao để xã hội tự do mà không rối loạn và vẫn phát triển tốt đẹp là một thách thức lớn của loài người. Đã có rất nhiều xã hội giải quyết vấn đề này thành công, nhưng sự thất bại vẫn chiếm đại đa số trong lịch sử của thế giới. Đến ngày nay, số lượng quốc gia thất bại vẫn vượt trội so với số lượng thành công. Những nước thành công chính là các quốc gia phát triển, xã hội ở đó vô cùng đa dạng chứ không hề bị đồng nhất bởi sự đồng thuận dù vẫn có những xu hướng chính trị/xã hội nào đó có thể thắng thế và trở nên phổ biến trong một thời gian dài. Chúng ta hãy phân tích một vài trường hợp trong lịch sử.
Cách đây độ 2500 năm, TQ là một xã hội rộng lớn của hàng chục nước chư hầu, có một ông vua của nhà Chu xưng là thiên tử để duy trì sự thống nhất trên danh nghĩa. Trên thực tế mỗi chư hầu là một lãnh địa cha truyền con nối hầu như muốn làm gì thì làm, không phụ thuộc vào nhà Chu. Các lãnh địa đó không có luật pháp, các ông vua chư hầu cai quản nó bằng ý muốn và cách thức riêng của mình, tức là hình thức nhân trị. Quan điểm phổ biến của các ông vua chư hầu thời đó là muốn áp đặt sự tập quyền lên lãnh địa của mình, nhưng đó là những vùng đất rất rộng lớn mà giao thông chưa phát triển nên thực tế chúng bị chia thành những xã hội tự do vô chính phủ quy mô nhỏ. Nó tương tự như tình trạng tự do không giới hạn mà ta đã bàn ở trên vậy. Không ai chính thức bảo vệ QCN nhưng cũng chẳng có sự cấm đoán nào. Người ta mặc sức sử dụng các quyền tự nhiên mà họ cảm thấy mình có và cũng mặc sức xâm phạm quyền của người khác nếu có thể. Bối cảnh như vậy vừa làm cho TQ xuất hiện nhiều kết quả khoa học và tư tưởng rất sớm trên thế giới, vừa làm cho xã hội rối ren nảy sinh rất nhiếu vấn nạn đạo đức. Đứng trước tình cảnh như vậy, xuất hiện 3 quan điểm giải quyết vấn đề. Thứ nhất của Lão Tử, ông chủ trương để con người thuận theo cái tự nhiên mà ông gọi là ĐẠO (sau này thế giới gọi là quy luật). Không cần cưỡng ép bằng lễ nghĩa. Thứ hai của Thương Ưởng, chủ trương dùng pháp luật để cai trị, được gọi là phái pháp gia như cậu đã viết ở trên. Họ cho rằng phải dùng hình phạt hà khắc để ngăn chặn vấn nạn đồng thời với ban thưởng xứng đáng cho những người làm tốt. Thứ ba là của Khổng Tử, phái Nho giáo như cậu đã viết trong thư 27B. Ông cho rằng cần áp đặt những quy tắc đạo đức (mà tụi con thường nghe là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) thì sẽ làm cho người ta sống tốt hơn, không xâm phạm đến người khác nên không gây ra vấn nạn đạo đức. Ông đi khắp nơi thuyết phục các ông vua chư hầu dùng quyền lực áp đặt các quy tắc này cho dân chúng nhưng không ai nghe. Cuối cùng ông về quê mở trường dạy học để phổ biến tư tưởng của mình. Vì chủ trương nhân văn (không xem trọng hình phạt mà đặt nặng giáo dục) nên sau này ông được gọi là Thánh nhân. Tuy nhiên tư tưởng của ông sau này bị lợi dụng để thuần nhất xã hội phục vụ cho mục đích cai trị tập quyền nên nó phát triển không lành mạnh, các vấn nạn đạo đức thực chất không hề giảm đi mà chúng chỉ được che giấu tinh vi dưới cái vỏ bọc đạo đức giả mang danh nghĩa Nho giáo. Nhưng đó không phải là lỗi hay ý muốn của Khổng Tử vì tư tưởng của ông chỉ được áp dụng phổ biến mấy trăm năm sau khi ông qua đời. Chỉ có điều là ông không nhìn thấy được quy luật phát triển xã hội nên không biết trước được rằng ngay cả những mong muốn rất tốt đẹp nhưng thực hiện bằng cách cưỡng ép toàn diện bằng quyền lực thì kết quả không thể tốt đẹp. Như cậu đã viết nhiều lần, những xã hội Nho giáo không những không giải quyết được các vấn nạn đạo đức mà còn kìm nén làm xã hội chậm tiến rất nhiều vì hoàn toàn thiếu tự do. Còn phái Pháp gia thì đã dẫn tới thành công vì đó là tư tưởng Pháp trị tiến bộ của đương thời. Nước Tần áp dụng nó, xây dựng các luật để từng trị những hành vi xấu xâm phạm con người nhưng vẫn duy trì một không gian tương đối tự do cho người dân vận động. Luật pháp lúc đầu là bình đẳng cho vương thất lẫn dân thường nhưng đến khi Tần Thủy Hoàng thiết lập chế độ tập quyền thì ông ta đặt mình và triều đại của mình đứng trên mọi luật pháp. Nền tảng của pháp trị vì vậy mà bị phá vỡ nên dần suy thoái và bị thay dần bởi tư tưởng đức trị của Nho giáo. Còn tư tưởng của Lão Tử dù có mang những tính chất của Pháp quyền nhưng nó còn quá sơ khai, không có được những nguyên lý vững chắc nên gần như không được quan tâm. Tóm lại, TQ đã không vượt qua được thách thức để phát triển. Nho giáo ngự trị hàng ngàn năm để kìm nén sự phát triển nhu cầu đa dạng của con người, làm xã hội thuần nhất và tiến triển chậm chạp và bị phương Tây qua mặt. Tụi con tìm đọc lại một thư cậu viết tháng 11 năm ngoái về “Lợi và nghĩa” để biết Nho giáo dùng khái niệm đạo đức là “nghĩa” để áp chế người dân đòi hỏi lợi ích cho mình như thế nào. Các chính quyền phong kiến tập quyền TQ không thực hiện chính sách hạn chế sự tự do không giới hạn, mà là áp chế hầu hết sự tự do – tức là tước đoạt hầu hết QCN.
Phương Tây là nơi có nhiều nước đã vượt qua được thách thức để trở thành quốc gia phát triển như ngày nay. Vào lúc mà TQ phát triển các chế độ phong kiến tập quyền vững chắc (sau Tần Thủy Hoàng) thì La Mã đã thực hiện các nguyên tắc dân chủ đầu tiên trên thế giới. Ở các thành bang La Mã, công dân tự do sẽ bầu lên Phán quan đại diện quản lý cho mình. Vua – Hoàng đế La Mã thì phải được Viện Nguyên lão (giống như Quốc hội) bầu lên chứ không phải do ông vua trước lựa chọn. Viện Nguyên lão là tập hợp đại diện cho giới quý tộc La Mã. Cùng thời đại sống của Khổng Tử và Lão Tử, vào năm 505 TCN đã nổ ra cuộc cách mạng của giới quý tộc La Mã thay đổi nền quân chủ bằng nền cộng hòa và thực hiện các thiết chế dân chủ như nói trên. Giới bình dân La Mã cũng không chịu kém, năm 494 TCN họ tập hợp biểu tình ở Đồi Thiêng để đòi quyền lợi cho mình. Cuộc đấu tranh quyết liệt của họ cuối cùng đã thắng lợi. Chính quyền quý tộc La Mã phải đồng ý để họ tự bầu chọn ra các Tribune (cậu quên tiếng Việt dịch là gì rồi :)). Các Tribune này có quyền phủ quyết mọi đạo luật Viện Nguyên lão đã thông qua và sẽ đại diện cho những người thuộc giới bình dân trong bất kỳ vụ kiện nào. Và đương nhiên những Tribune này có quyền bất khả xâm phạm. Tụi con có thấy rằng những nguyên tắc dân chủ sơ khai này đến bây giờ vẫn còn khá xa lạ ở rất nhiều nước không? Chính tính dân chủ này là nguyên nhân chính làm cho La Mã phát triển mạnh mẽ trong hơn một ngàn năm. Những nguyên tắc dân chủ khởi thủy này sau đó được nước Anh phát triển tiếp tục từ cuối thế kỷ 12, gắn với QCN. Trong bức thư tháng 11 năm ngoái, cậu đã kể cho tụi con nghe quá trình đấu tranh của người dân Anh để bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong khoảng thời gian này. Thành tựu vĩ đại của họ là bản Đại hiến chương Magna Carta (1215) được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền đầu tiên của thế giới. Lần đầu tiên một Nhà nước ký cam kết bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa cho người dân. Đây là nền tảng làm cho xã hội Anh ngày càng tự do hơn các nước Châu Âu khác, thành phần xã hội cũng phát triển rất đa dạng và công khai đấu tranh cho quyền lợi của mình. Các quan điểm lợi ích trong xã hội vì vậy mà cũng rất khác nhau. Mâu thuẫn lợi ích đã nhiều lần dẫn đến xung đột giữa các phe phái, các thành phần xã hội, cả giữa vua và dân. Tuy nhiên trong đa số các trường hợp, người Anh uôn tìm được những sự thỏa hiệp cân bằng giữa các lợi ích cho các bên khác nhau và được ghi thành luật. Sau những lần xung đột thì họ dường như dễ thỏa hiệp hơn. Đó là cách người Anh giải quyết thách thức “vừa đảm bảo cho xã hội tự do, vừa không bị rối loạn để phát triển”. Từ khi Đại hiến chương Magna Carta ra đời đến nay, xã hội Anh chỉ bị rơi vào 1 cuộc xung đột vũ lực duy nhất vào 1640. Các khác biệt, thậm chí là xung đột lợi ích được giải quyết ngày càng văn minh và hiệu quả hơn tại nghị trường và các cuộc bỏ phiếu của người dân. Mọi người đều có tự do vận động cho lợi ích, giá trị và niềm tin của mình trừ bạo lực. Trong khi đó các nước châu Âu khác thì xung đột xã hội xảy ra rất gay gắt và thường phải giải quyết bằng bạo lực. Những cuộc thập tự chinh đẫm máu vì niềm tin tôn giáo khác nhau, những cuộc lật đổ bằng vũ trang để thay đổi triều đại, các cuộc khởi nghĩa của nông dân; công nhân, v.v… là những cách thức giải quyết mâu thuẫn xã hội vì quyền lợi phổ biến ở châu Âu trong thiên niên kỷ thứ 2. Nước Anh vì vậy mà đã vượt lên mạnh mẽ trong thiên niên kỷ này. Cách thức giải quyết mâu thuẫn xã hội, xung đột lợi ích bằng nền tảng dân chủ của họ đã lan tỏa ra toàn phương Tây, đầu tiên là Mỹ và sau đó là Tây Âu, Bắc Âu, Nam Âu làm cho khu vực này phát triển bỏ xa phần còn lại của thế giới cho đến tận bây giờ. Cũng trong thiên niên kỷ này, chỉ có một nước ở châu Á là Nhật đã theo cách thức này và đạt trình độ hàng đầu của phương Tây. Cách thức này hiện nay đã trở thành xu thế phát triển tiến bộ, văn minh của nhân loại. Từ đầu năm 2014 đến nay, chúng ta chứng kiến 2 sự kiện lớn về giải quyết mâu thuẫn ở châu Âu. Một là cuộc xung đột ly khai của miền Đông Ucraina, nó đã không tôn trọng các nguyên tắc dân chủ nên đã dẫn đến chiến tranh tàn phá, tương lai của nó đến giờ vẫn mờ mịt. Hai là cuộc trưng cầu dân ý nhằm tách ra khỏi Vương quốc Anh của vùng Scotland để thành lập một nước Cộng hòa. Nó đã không thành công nhưng đã mang về nhiều quyền lực hơn cho vùng đất này, và chẳng có ai phải đổ máu vì xung đột. Nhưng điều quan trọng hơn là: nó đã xác lập một trạng thái cân bằng mới của xã hội Anh mà ở đó mọi người tạm vừa lòng vì ai cũng có quyền tự do vận động cho điều mong muốn bằng tất cả những gì mình có trừ bạo lực. Người muốn tách ra, người muốn ở lại nhưng không ai bị ngăn cản, cưỡng ép, bắt tội hay chỉ là đe dọa để phải thể hiện khác ý muốn của mình. Trạng thái cân bằng mới này sẽ đẩy nước Anh tiến nhanh hơn sắp tới. Nếu cuộc trưng cầu này thành công thì cũng tốt thôi, sẽ có một quốc gia mới ra đời trong hòa bình. Nước Anh sẽ có một đồng minh chiến lược là Cộng Hòa Scotland. Cục diện châu Âu sẽ có một chút thay đổi. Còn đối với người dân Anh và Scotland thì cậu cho rằng sẽ không có gì thay đổi nhiều trong cuộc sống của họ vì mọi QCN của họ sẽ luôn được bảo vệ trên hết dù là ở Anh hay Scotland. Bày tỏ quan điểm của mình đối với mọi vấn đề là thực hiện QCN. Khẳng định lựa chọn của mình trong một cuộc trưng cầu dân ý cũng là QCN.
Tụi con đã thấy được rằng QCN chính là sự khác biệt, là giá trị vượt bậc giữa Anh và phần còn lại của Châu Âu trong cuối thời kỳ Trung đại (tk 5 – tk 15) chưa? QCN cũng là giá trị bị thiếu vắng ở phương Đông (trừ Nhật) so với phương Tây. Từ khi Tần Thủy Hoàng thiết lập chế độ phong kiến tập quyền, ở TQ đã không còn những cuộc đấu tranh của các thành phần xã hội vì quyền lợi của mình hoặc có mà không đáng kể. Đến trước cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở nước này, đã có vô số cuộc khởi nghĩa vũ trang của giai cấp nông dân chống lại chính quyền phong kiến tập nhưng hầu hết đều thất bại và dìm trong biển máu. Những trường hợp thành công hiếm hoi thì cuối cùng lại dẫn đến sự thành lập mộ chính quyền phong kiến tập quyền mới, quyền ợi của nông dân và các thành phần xã hội khác không thuộc giới cầm quyền hoàn toàn không thay đổi. Trong một thời gian dài hơn 2000 năm, Nho giáo đã được sử dụng để đồng nhất ý thức của dân chúng theo một trật tự mà giới cầm quyền mong muốn. Vì không biết làm cách nào để đáp ứng những đòi hỏi quyền lợi rất khác nhau của các thanh phần xã hội nên chính quyền phong kiến nhận thấy quan điểm áp đặt lễ giáo của Nho giáo là rất hiệu quả để làm cho người dân không đòi hỏi quyền lợi. Họ giáo dục từ nhỏ để làm cho người dân hình thành một ý thức thuần nhất là: “nghĩ đến lợi là bất nghĩa”. Lễ nghĩa cũng là nguyên tắc đạo đức cơ bản để vua quan cai trị dân chúng. Cái lợi hợp pháp và chính nghĩa phải là cái được ban phát, chứ không phải là cái được đòi hỏi. Cứ như vậy qua bao thế hệ, người dân trong các xã hội Nho giáo ngự trị bị ngự trị toàn diện về tinh thần. Họ không những không ý thức đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình mà còn nghĩ rằng cầu xin là một cách thức chính nghĩa. Xã hội vì vậy mà không có sự vận động của họ, tức của tuyệt đại đa số. Nó chỉ còn sự đấu đá tranh giành của các phe phái trong chính quyền, tức của giới quan lại chiếm thiểu số cực nhỏ. Người dân đến khi quá cơ cực thì được vua quan ban phát cho một chút vật chất thì đã thấy hạnh phúc và có thể tiếp tục chịu đựng một thời gian nữa. Chỉ đến khi vua quan quá thối nát nên không còn đủ tiền để ăn chơi, không thể ban phát được nữa mà lại còn tăng thuế thì mới dẫn đến những cuộc nổi dậy. Nhưng người ta nổi dậy vì thù hận là chủ yếu chứ không phải để thay đổi căn bản sự bảo đảm cho quyền lợi của mình một cách lâu dài. Một phần là vì những người kêu gọi khởi nghĩa kích vào lòng thù hằn để tập hợp lực lượng khởi nghĩa, phần còn lại vì chính cái ý thức “nghĩ đến lợi là bất nghĩa” đã ăn sâu bao đời. Do vậy mà tên gọi khởi nghĩa nông dân là để chỉ những cuộc nổi dậy thất bại, còn những cái thành công thì giới cầm quyền mới lập tức che giấu thuộc tính nông dân và gắn cho nó những mỹ từ để làm cho mình trở nên tôn quý. Họ ban phát cho những người nông dân đã bỏ sức, đổ máu vì họ một số vật chất. Những người nông dân tội nghiệp này hài lòng và trở về với số kiếp cũ của mình. Đời con đời cháu của họ lặp lại những số phận như thế, không có ý thức bảo vệ quyền lợi của mình mà chỉ quen cầu xin.
Nhưng hướng đến lợi ích là bản chất tự nhiên của con người. Đó cũng chính là động lực để loài người phát triển. Tụi con thử tưởng tượng xem thế giới này sẽ thế nào nếu một ngày nào đó con người bỗng nhiên không còn bản chất này nữa? Cậu tin là nó sẽ nhanh chóng suy thoái và bị hủy diệt. Một xã hội phát triển lành mạnh là nơi mà con người có thể đáp ứng lợi ích cho mình mà không xâm phạm đến lợi ích của người khác. Tốt hơn nữa là: muốn có lợi ích cho mình thì cần đáp ứng lợi ích cho nhiều người khác. Mệnh đề này chính là nguyên lý căn bản của Quy luật Kinh tế Thị trường đã được thực chứng hơn 200 năm rồi: “Khi ai cũng được tự do mưu cầu lợi ích cho mình thì người ta sẽ tìm cách đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người khác để làm lợi nhiều nhất cho mình. Và nhờ vậy mà các nhu cầu khác nhau rất phức tạp của mọi người trong xã hội sẽ được tự động đáp ứng, tự động cân bằng với sản xuất và sẽ phát triển ngày một nhiều hơn.” (Tụi con thấy Tạo hóa kỳ diệu không? Sáng tạo ra một loài gắn với một bản chất nào đó thì sẽ có một quy luật cũng được sáng tạo ra tương ứng với bản chất ấy để loài ấy có thể phát triển tốt đẹp. Đây là một đề tài thú vị, có dịp cậu sẽ chia sẻ với tụi con.) Tự do mưu cầu lợi ích là một trong những quyền của con người. Vì vậy chỉ cần quyền được bảo vệ thì người ta sẽ tự làm ra lợi cho mình và cho xã hội. Khi quyền bị tước đoạt thì vì bản chất hưởng lợi nên người ta thường sẵn sàng từ bỏ quyền của mình để vì lợi. Đây là nguồn gốc của sự lệ thuộc của con người. Có những người rất giàu mà vẫn lệ thuộc là vì thế. Đó cũng là nguồn gốc của mọi vấn nạn xã hội, đạo đức như tham nhũng, giả dối, đạo đức giả … Trong xã hội VN và TQ thời phong kiến, dù bị kìm nén nhưng hành động vì lợi vẫn là mục đích thực sự của người dân và quan lại nhưng phải được che giấu dưới cái danh nghĩa vì người chứ không phải vì mình. Những xã hội này vì vậy mà phát triển chậm chạp và đầy vấn nạn. Ở Châu Âu thì không bị kìm nén như vậy, người ta có thể công khai đấu tranh vì lợi ích của mình. Nhưng QCN lại chưa được quan tâm tại đây (ngoại trừ nước Anh) nên sự đấu tranh vì lợi ích thường trở thành sự tranh giành quyền lực để bảo vệ quyền lợi của các phe nhóm khác nhau. Vì thế mà xung đột vũ trang xảy ra nhiều hơn hẳn so với ở Anh. Niềm tin tôn giáo phổ biến ở Châu Âu cũng dễ dàng được sử dụng để biến thành quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi tôn giáo. Đó là lý do dẫn đến sự hình thành các nhà nước phong kiến thần quyền mà cậu đã đề cập. Trong khi đó loại nhà nước này không thể hình thành tại Anh. So với TQ thì châu Âu vẫn tiến nhanh hơn vì các thành phần xã hội vẫn có thể công khai đấu tranh cho lợi ích của mình nên xã hội có động lực để phát triển hơn. Chính sách phát triển này của Châu Âu đã dẫn đến các nhà nước giai cấp để bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền sau khi các nhà nước thần quyền sụp đổ. Còn sự phát triển của Anh thì dẫn đến sự hình thành các nhà nước pháp quyền – một giá trị lớn một sự tiến bộ vượt bậc của nhân loại đã được thế giới thừa nhận và ủng hộ.
(Hết phần 7)
Bản viết tay:





Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"