Trằn Huỳnh Duy Thức
Một xã hội phát triển lành mạnh là nơi mà con người có thể
đáp ứng lợi ích cho mình mà không xâm phạm đến lợi ích của người khác.
Tốt hơn nữa là: muốn có lợi ích cho mình thì cần đáp ứng lợi ích cho
nhiều người khác. Mệnh đề này chính là nguyên lý căn bản của Quy luật
Kinh tế Thị trường đã được thực chứng hơn 200 năm rồi: “Khi ai cũng được
tự do mưu cầu lợi ích cho mình thì người ta sẽ tìm cách đáp ứng tốt
nhất nhu cầu của người khác để làm lợi nhiều nhất cho mình. Và nhờ vậy
mà các nhu cầu khác nhau rất phức tạp của mọi người trong xã hội sẽ được
tự động đáp ứng, tự động cân bằng với sản xuất và sẽ phát triển ngày
một nhiều hơn.”
3/11/2014
Sự bất đồng trong quan điểm về hạn chế nhiều hơn rất nhiều lần so với
sự đồng thuận. Nhưng đó mới chính là bản chất thực tế của loài người
hay của xã hội. Người ta càng tự do thì sự bất đồng càng lớn, khác biệt
càng nhiều. Nhưng đó mới đúng là xã hội của con người. Loài người khác
loài vật ở chỗ có ý thức phát triển rất đa dạng, chính sự đa dạng đó làm
loài người tiến bộ. Còn loài vật thì có ý thức cực kỳ thấp, gần như
không phát triển vì vậy chúng rất dễ dàng đạt được sự đồng thuận tuyệt
đối khi sống thành bày đàn – tức là xã hội của chúng. Làm sao để xã hội
tự do mà không rối loạn và vẫn phát triển tốt đẹp là một thách thức lớn
của loài người. Đã có rất nhiều xã hội giải quyết vấn đề này thành công,
nhưng sự thất bại vẫn chiếm đại đa số trong lịch sử của thế giới. Đến
ngày nay, số lượng quốc gia thất bại vẫn vượt trội so với số lượng thành
công. Những nước thành công chính là các quốc gia phát triển, xã hội ở
đó vô cùng đa dạng chứ không hề bị đồng nhất bởi sự đồng thuận dù vẫn có
những xu hướng chính trị/xã hội nào đó có thể thắng thế và trở nên phổ
biến trong một thời gian dài. Chúng ta hãy phân tích một vài trường hợp
trong lịch sử.
Cách đây độ 2500 năm, TQ là một xã hội rộng lớn của hàng chục nước
chư hầu, có một ông vua của nhà Chu xưng là thiên tử để duy trì sự thống
nhất trên danh nghĩa. Trên thực tế mỗi chư hầu là một lãnh địa cha
truyền con nối hầu như muốn làm gì thì làm, không phụ thuộc vào nhà Chu.
Các lãnh địa đó không có luật pháp, các ông vua chư hầu cai quản nó
bằng ý muốn và cách thức riêng của mình, tức là hình thức nhân trị. Quan
điểm phổ biến của các ông vua chư hầu thời đó là muốn áp đặt sự tập
quyền lên lãnh địa của mình, nhưng đó là những vùng đất rất rộng lớn mà
giao thông chưa phát triển nên thực tế chúng bị chia thành những xã hội
tự do vô chính phủ quy mô nhỏ. Nó tương tự như tình trạng tự do không
giới hạn mà ta đã bàn ở trên vậy. Không ai chính thức bảo vệ QCN nhưng
cũng chẳng có sự cấm đoán nào. Người ta mặc sức sử dụng các quyền tự
nhiên mà họ cảm thấy mình có và cũng mặc sức xâm phạm quyền của người
khác nếu có thể. Bối cảnh như vậy vừa làm cho TQ xuất hiện nhiều kết quả
khoa học và tư tưởng rất sớm trên thế giới, vừa làm cho xã hội rối ren
nảy sinh rất nhiếu vấn nạn đạo đức. Đứng trước tình cảnh như vậy, xuất
hiện 3 quan điểm giải quyết vấn đề. Thứ nhất của Lão Tử, ông chủ trương
để con người thuận theo cái tự nhiên mà ông gọi là ĐẠO (sau này thế giới
gọi là quy luật). Không cần cưỡng ép bằng lễ nghĩa. Thứ hai của Thương
Ưởng, chủ trương dùng pháp luật để cai trị, được gọi là phái pháp gia
như cậu đã viết ở trên. Họ cho rằng phải dùng hình phạt hà khắc để ngăn
chặn vấn nạn đồng thời với ban thưởng xứng đáng cho những người làm tốt.
Thứ ba là của Khổng Tử, phái Nho giáo như cậu đã viết trong thư 27B.
Ông cho rằng cần áp đặt những quy tắc đạo đức (mà tụi con thường nghe là
nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) thì sẽ làm cho người ta sống tốt hơn, không
xâm phạm đến người khác nên không gây ra vấn nạn đạo đức. Ông đi khắp
nơi thuyết phục các ông vua chư hầu dùng quyền lực áp đặt các quy tắc
này cho dân chúng nhưng không ai nghe. Cuối cùng ông về quê mở trường
dạy học để phổ biến tư tưởng của mình. Vì chủ trương nhân văn (không xem
trọng hình phạt mà đặt nặng giáo dục) nên sau này ông được gọi là Thánh
nhân. Tuy nhiên tư tưởng của ông sau này bị lợi dụng để thuần nhất xã
hội phục vụ cho mục đích cai trị tập quyền nên nó phát triển không lành
mạnh, các vấn nạn đạo đức thực chất không hề giảm đi mà chúng chỉ được
che giấu tinh vi dưới cái vỏ bọc đạo đức giả mang danh nghĩa Nho giáo.
Nhưng đó không phải là lỗi hay ý muốn của Khổng Tử vì tư tưởng của ông
chỉ được áp dụng phổ biến mấy trăm năm sau khi ông qua đời. Chỉ có điều
là ông không nhìn thấy được quy luật phát triển xã hội nên không biết
trước được rằng ngay cả những mong muốn rất tốt đẹp nhưng thực hiện bằng
cách cưỡng ép toàn diện bằng quyền lực thì kết quả không thể tốt đẹp.
Như cậu đã viết nhiều lần, những xã hội Nho giáo không những không giải
quyết được các vấn nạn đạo đức mà còn kìm nén làm xã hội chậm tiến rất
nhiều vì hoàn toàn thiếu tự do. Còn phái Pháp gia thì đã dẫn tới thành
công vì đó là tư tưởng Pháp trị tiến bộ của đương thời. Nước Tần áp dụng
nó, xây dựng các luật để từng trị những hành vi xấu xâm phạm con người
nhưng vẫn duy trì một không gian tương đối tự do cho người dân vận động.
Luật pháp lúc đầu là bình đẳng cho vương thất lẫn dân thường nhưng đến
khi Tần Thủy Hoàng thiết lập chế độ tập quyền thì ông ta đặt mình và
triều đại của mình đứng trên mọi luật pháp. Nền tảng của pháp trị vì vậy
mà bị phá vỡ nên dần suy thoái và bị thay dần bởi tư tưởng đức trị của
Nho giáo. Còn tư tưởng của Lão Tử dù có mang những tính chất của Pháp
quyền nhưng nó còn quá sơ khai, không có được những nguyên lý vững chắc
nên gần như không được quan tâm. Tóm lại, TQ đã không vượt qua được
thách thức để phát triển. Nho giáo ngự trị hàng ngàn năm để kìm nén sự
phát triển nhu cầu đa dạng của con người, làm xã hội thuần nhất và tiến
triển chậm chạp và bị phương Tây qua mặt. Tụi con tìm đọc lại một thư
cậu viết tháng 11 năm ngoái về “Lợi và nghĩa” để biết Nho giáo dùng khái
niệm đạo đức là “nghĩa” để áp chế người dân đòi hỏi lợi ích cho mình
như thế nào. Các chính quyền phong kiến tập quyền TQ không thực hiện
chính sách hạn chế sự tự do không giới hạn, mà là áp chế hầu hết sự tự
do – tức là tước đoạt hầu hết QCN.
Phương Tây là nơi có nhiều nước đã vượt qua được thách thức để trở
thành quốc gia phát triển như ngày nay. Vào lúc mà TQ phát triển các chế
độ phong kiến tập quyền vững chắc (sau Tần Thủy Hoàng) thì La Mã đã
thực hiện các nguyên tắc dân chủ đầu tiên trên thế giới. Ở các thành
bang La Mã, công dân tự do sẽ bầu lên Phán quan đại diện quản lý cho
mình. Vua – Hoàng đế La Mã thì phải được Viện Nguyên lão (giống như Quốc
hội) bầu lên chứ không phải do ông vua trước lựa chọn. Viện Nguyên lão
là tập hợp đại diện cho giới quý tộc La Mã. Cùng thời đại sống của Khổng
Tử và Lão Tử, vào năm 505 TCN đã nổ ra cuộc cách mạng của giới quý tộc
La Mã thay đổi nền quân chủ bằng nền cộng hòa và thực hiện các thiết chế
dân chủ như nói trên. Giới bình dân La Mã cũng không chịu kém, năm 494
TCN họ tập hợp biểu tình ở Đồi Thiêng để đòi quyền lợi cho mình. Cuộc
đấu tranh quyết liệt của họ cuối cùng đã thắng lợi. Chính quyền quý tộc
La Mã phải đồng ý để họ tự bầu chọn ra các Tribune (cậu quên tiếng Việt
dịch là gì rồi :)). Các Tribune này có quyền phủ quyết mọi đạo luật Viện
Nguyên lão đã thông qua và sẽ đại diện cho những người thuộc giới bình
dân trong bất kỳ vụ kiện nào. Và đương nhiên những Tribune này có quyền
bất khả xâm phạm. Tụi con có thấy rằng những nguyên tắc dân chủ sơ khai
này đến bây giờ vẫn còn khá xa lạ ở rất nhiều nước không? Chính tính dân
chủ này là nguyên nhân chính làm cho La Mã phát triển mạnh mẽ trong hơn
một ngàn năm. Những nguyên tắc dân chủ khởi thủy này sau đó được nước
Anh phát triển tiếp tục từ cuối thế kỷ 12, gắn với QCN. Trong bức thư
tháng 11 năm ngoái, cậu đã kể cho tụi con nghe quá trình đấu tranh của
người dân Anh để bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong khoảng thời gian
này. Thành tựu vĩ đại của họ là bản Đại hiến chương Magna Carta (1215)
được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền đầu tiên của thế giới. Lần đầu tiên
một Nhà nước ký cam kết bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế, xã
hội, văn hóa cho người dân. Đây là nền tảng làm cho xã hội Anh ngày càng
tự do hơn các nước Châu Âu khác, thành phần xã hội cũng phát triển rất
đa dạng và công khai đấu tranh cho quyền lợi của mình. Các quan điểm lợi
ích trong xã hội vì vậy mà cũng rất khác nhau. Mâu thuẫn lợi ích đã
nhiều lần dẫn đến xung đột giữa các phe phái, các thành phần xã hội, cả
giữa vua và dân. Tuy nhiên trong đa số các trường hợp, người Anh uôn tìm
được những sự thỏa hiệp cân bằng giữa các lợi ích cho các bên khác nhau
và được ghi thành luật. Sau những lần xung đột thì họ dường như dễ thỏa
hiệp hơn. Đó là cách người Anh giải quyết thách thức “vừa đảm bảo cho
xã hội tự do, vừa không bị rối loạn để phát triển”. Từ khi Đại hiến
chương Magna Carta ra đời đến nay, xã hội Anh chỉ bị rơi vào 1 cuộc xung
đột vũ lực duy nhất vào 1640. Các khác biệt, thậm chí là xung đột lợi
ích được giải quyết ngày càng văn minh và hiệu quả hơn tại nghị trường
và các cuộc bỏ phiếu của người dân. Mọi người đều có tự do vận động cho
lợi ích, giá trị và niềm tin của mình trừ bạo lực. Trong khi đó các nước
châu Âu khác thì xung đột xã hội xảy ra rất gay gắt và thường phải giải
quyết bằng bạo lực. Những cuộc thập tự chinh đẫm máu vì niềm tin tôn
giáo khác nhau, những cuộc lật đổ bằng vũ trang để thay đổi triều đại,
các cuộc khởi nghĩa của nông dân; công nhân, v.v… là những cách thức
giải quyết mâu thuẫn xã hội vì quyền lợi phổ biến ở châu Âu trong thiên
niên kỷ thứ 2. Nước Anh vì vậy mà đã vượt lên mạnh mẽ trong thiên niên
kỷ này. Cách thức giải quyết mâu thuẫn xã hội, xung đột lợi ích bằng nền
tảng dân chủ của họ đã lan tỏa ra toàn phương Tây, đầu tiên là Mỹ và
sau đó là Tây Âu, Bắc Âu, Nam Âu làm cho khu vực này phát triển bỏ xa
phần còn lại của thế giới cho đến tận bây giờ. Cũng trong thiên niên kỷ
này, chỉ có một nước ở châu Á là Nhật đã theo cách thức này và đạt trình
độ hàng đầu của phương Tây. Cách thức này hiện nay đã trở thành xu thế
phát triển tiến bộ, văn minh của nhân loại. Từ đầu năm 2014 đến nay,
chúng ta chứng kiến 2 sự kiện lớn về giải quyết mâu thuẫn ở châu Âu. Một
là cuộc xung đột ly khai của miền Đông Ucraina, nó đã không tôn trọng
các nguyên tắc dân chủ nên đã dẫn đến chiến tranh tàn phá, tương lai của
nó đến giờ vẫn mờ mịt. Hai là cuộc trưng cầu dân ý nhằm tách ra khỏi
Vương quốc Anh của vùng Scotland để thành lập một nước Cộng hòa. Nó đã
không thành công nhưng đã mang về nhiều quyền lực hơn cho vùng đất này,
và chẳng có ai phải đổ máu vì xung đột. Nhưng điều quan trọng hơn là: nó
đã xác lập một trạng thái cân bằng mới của xã hội Anh mà ở đó mọi người
tạm vừa lòng vì ai cũng có quyền tự do vận động cho điều mong muốn bằng
tất cả những gì mình có trừ bạo lực. Người muốn tách ra, người muốn ở
lại nhưng không ai bị ngăn cản, cưỡng ép, bắt tội hay chỉ là đe dọa để
phải thể hiện khác ý muốn của mình. Trạng thái cân bằng mới này sẽ đẩy
nước Anh tiến nhanh hơn sắp tới. Nếu cuộc trưng cầu này thành công thì
cũng tốt thôi, sẽ có một quốc gia mới ra đời trong hòa bình. Nước Anh sẽ
có một đồng minh chiến lược là Cộng Hòa Scotland. Cục diện châu Âu sẽ
có một chút thay đổi. Còn đối với người dân Anh và Scotland thì cậu cho
rằng sẽ không có gì thay đổi nhiều trong cuộc sống của họ vì mọi QCN của
họ sẽ luôn được bảo vệ trên hết dù là ở Anh hay Scotland. Bày tỏ quan
điểm của mình đối với mọi vấn đề là thực hiện QCN. Khẳng định lựa chọn
của mình trong một cuộc trưng cầu dân ý cũng là QCN.
Tụi con đã thấy được rằng QCN chính là sự khác biệt, là giá trị vượt
bậc giữa Anh và phần còn lại của Châu Âu trong cuối thời kỳ Trung đại
(tk 5 – tk 15) chưa? QCN cũng là giá trị bị thiếu vắng ở phương Đông
(trừ Nhật) so với phương Tây. Từ khi Tần Thủy Hoàng thiết lập chế độ
phong kiến tập quyền, ở TQ đã không còn những cuộc đấu tranh của các
thành phần xã hội vì quyền lợi của mình hoặc có mà không đáng kể. Đến
trước cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) ở nước này, đã có vô số cuộc khởi
nghĩa vũ trang của giai cấp nông dân chống lại chính quyền phong kiến
tập nhưng hầu hết đều thất bại và dìm trong biển máu. Những trường hợp
thành công hiếm hoi thì cuối cùng lại dẫn đến sự thành lập mộ chính
quyền phong kiến tập quyền mới, quyền ợi của nông dân và các thành phần
xã hội khác không thuộc giới cầm quyền hoàn toàn không thay đổi. Trong
một thời gian dài hơn 2000 năm, Nho giáo đã được sử dụng để đồng nhất ý
thức của dân chúng theo một trật tự mà giới cầm quyền mong muốn. Vì
không biết làm cách nào để đáp ứng những đòi hỏi quyền lợi rất khác nhau
của các thanh phần xã hội nên chính quyền phong kiến nhận thấy quan
điểm áp đặt lễ giáo của Nho giáo là rất hiệu quả để làm cho người dân
không đòi hỏi quyền lợi. Họ giáo dục từ nhỏ để làm cho người dân hình
thành một ý thức thuần nhất là: “nghĩ đến lợi là bất nghĩa”. Lễ nghĩa
cũng là nguyên tắc đạo đức cơ bản để vua quan cai trị dân chúng. Cái lợi
hợp pháp và chính nghĩa phải là cái được ban phát, chứ không phải là
cái được đòi hỏi. Cứ như vậy qua bao thế hệ, người dân trong các xã hội
Nho giáo ngự trị bị ngự trị toàn diện về tinh thần. Họ không những không
ý thức đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình mà còn nghĩ rằng cầu xin
là một cách thức chính nghĩa. Xã hội vì vậy mà không có sự vận động của
họ, tức của tuyệt đại đa số. Nó chỉ còn sự đấu đá tranh giành của các
phe phái trong chính quyền, tức của giới quan lại chiếm thiểu số cực
nhỏ. Người dân đến khi quá cơ cực thì được vua quan ban phát cho một
chút vật chất thì đã thấy hạnh phúc và có thể tiếp tục chịu đựng một
thời gian nữa. Chỉ đến khi vua quan quá thối nát nên không còn đủ tiền
để ăn chơi, không thể ban phát được nữa mà lại còn tăng thuế thì mới dẫn
đến những cuộc nổi dậy. Nhưng người ta nổi dậy vì thù hận là chủ yếu
chứ không phải để thay đổi căn bản sự bảo đảm cho quyền lợi của mình một
cách lâu dài. Một phần là vì những người kêu gọi khởi nghĩa kích vào
lòng thù hằn để tập hợp lực lượng khởi nghĩa, phần còn lại vì chính cái ý
thức “nghĩ đến lợi là bất nghĩa” đã ăn sâu bao đời. Do vậy mà tên gọi
khởi nghĩa nông dân là để chỉ những cuộc nổi dậy thất bại, còn những cái
thành công thì giới cầm quyền mới lập tức che giấu thuộc tính nông dân
và gắn cho nó những mỹ từ để làm cho mình trở nên tôn quý. Họ ban phát
cho những người nông dân đã bỏ sức, đổ máu vì họ một số vật chất. Những
người nông dân tội nghiệp này hài lòng và trở về với số kiếp cũ của
mình. Đời con đời cháu của họ lặp lại những số phận như thế, không có ý
thức bảo vệ quyền lợi của mình mà chỉ quen cầu xin.
Nhưng hướng đến lợi ích là bản chất tự nhiên của con người. Đó cũng
chính là động lực để loài người phát triển. Tụi con thử tưởng tượng xem
thế giới này sẽ thế nào nếu một ngày nào đó con người bỗng nhiên không
còn bản chất này nữa? Cậu tin là nó sẽ nhanh chóng suy thoái và bị hủy
diệt. Một xã hội phát triển lành mạnh là nơi mà con người có thể đáp ứng
lợi ích cho mình mà không xâm phạm đến lợi ích của người khác. Tốt hơn
nữa là: muốn có lợi ích cho mình thì cần đáp ứng lợi ích cho nhiều người
khác. Mệnh đề này chính là nguyên lý căn bản của Quy luật Kinh tế Thị
trường đã được thực chứng hơn 200 năm rồi: “Khi ai cũng được tự do mưu
cầu lợi ích cho mình thì người ta sẽ tìm cách đáp ứng tốt nhất nhu cầu
của người khác để làm lợi nhiều nhất cho mình. Và nhờ vậy mà các nhu cầu
khác nhau rất phức tạp của mọi người trong xã hội sẽ được tự động đáp
ứng, tự động cân bằng với sản xuất và sẽ phát triển ngày một nhiều hơn.”
(Tụi con thấy Tạo hóa kỳ diệu không? Sáng tạo ra một loài gắn với một
bản chất nào đó thì sẽ có một quy luật cũng được sáng tạo ra tương ứng
với bản chất ấy để loài ấy có thể phát triển tốt đẹp. Đây là một đề tài
thú vị, có dịp cậu sẽ chia sẻ với tụi con.) Tự do mưu cầu lợi ích là một
trong những quyền của con người. Vì vậy chỉ cần quyền được bảo vệ thì
người ta sẽ tự làm ra lợi cho mình và cho xã hội. Khi quyền bị tước đoạt
thì vì bản chất hưởng lợi nên người ta thường sẵn sàng từ bỏ quyền của
mình để vì lợi. Đây là nguồn gốc của sự lệ thuộc của con người. Có những
người rất giàu mà vẫn lệ thuộc là vì thế. Đó cũng là nguồn gốc của mọi
vấn nạn xã hội, đạo đức như tham nhũng, giả dối, đạo đức giả … Trong xã
hội VN và TQ thời phong kiến, dù bị kìm nén nhưng hành động vì lợi vẫn
là mục đích thực sự của người dân và quan lại nhưng phải được che giấu
dưới cái danh nghĩa vì người chứ không phải vì mình. Những xã hội này vì
vậy mà phát triển chậm chạp và đầy vấn nạn. Ở Châu Âu thì không bị kìm
nén như vậy, người ta có thể công khai đấu tranh vì lợi ích của mình.
Nhưng QCN lại chưa được quan tâm tại đây (ngoại trừ nước Anh) nên sự đấu
tranh vì lợi ích thường trở thành sự tranh giành quyền lực để bảo vệ
quyền lợi của các phe nhóm khác nhau. Vì thế mà xung đột vũ trang xảy ra
nhiều hơn hẳn so với ở Anh. Niềm tin tôn giáo phổ biến ở Châu Âu cũng
dễ dàng được sử dụng để biến thành quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ quyền
lợi tôn giáo. Đó là lý do dẫn đến sự hình thành các nhà nước phong kiến
thần quyền mà cậu đã đề cập. Trong khi đó loại nhà nước này không thể
hình thành tại Anh. So với TQ thì châu Âu vẫn tiến nhanh hơn vì các
thành phần xã hội vẫn có thể công khai đấu tranh cho lợi ích của mình
nên xã hội có động lực để phát triển hơn. Chính sách phát triển này của
Châu Âu đã dẫn đến các nhà nước giai cấp để bảo vệ quyền lợi của giai
cấp cầm quyền sau khi các nhà nước thần quyền sụp đổ. Còn sự phát triển
của Anh thì dẫn đến sự hình thành các nhà nước pháp quyền – một giá trị
lớn một sự tiến bộ vượt bậc của nhân loại đã được thế giới thừa nhận và
ủng hộ.
(Hết phần 7)
(Hết phần 7)
Bản viết tay: