Thứ Ba, 9 tháng 12, 2014

Những ngày cuối cùng của Đảng CSVN? (2)

Michael J. Totten
Athena chuyển ngữ
Có một điều không thể chối cãi: các đồng nghiệp của tôi làm trong ngành truyền thông ở Việt Nam không thể viết về bất cứ điều gì họ muốn.
Tôi đã hỏi một nhà báo địa phương về việc hệ thống kiểm duyệt hoạt động như thế nào và xem chừng cô ấy trả lời tôi khá thành thật. Tôi sẽ không đề tên cô ấy ở đây để tránh cho cô gặp những rắc rối. Việt Nam không phải là Bắc Triều Tiên, nhưng nó cũng chưa đến mức được như Canada.
“Chính phủ sở hữu mọi thứ về mặt kỹ thuật nhưng từ lâu rồi không còn quản lý trực tiếp nữa,” cô trả lời. “Thực sự tôi không chắc liệu tôi có tự do báo chí nhiều đến đâu, hay tôi tự kiểm duyệt mình quá mức ra sao bởi tôi đã quá quen với nó rồi.”
Đúng là cá không gặp nước rồi.
“Không ai nói cho tôi biết xem tôi có thể và không thể viết về cái gì. Tôi chỉ tự nhận biết theo bản năng về những thứ tôi không nên viết bởi tôi sinh ra và lớn lên ở đây. Các quy định không được viết hẳn ra, nhưng nó có sự thay đổi. Ví dụ, trước đây, chúng tôi không thể in từ dân chủ trong bất kỳ nội dung văn bản nào, nhưng giờ thì có. Việc chỉ trích Trung Quốc cũng vậy, nhưng giờ thì hoàn toàn bình thường.”

“Điều gì sẽ xảy ra nếu cô phá luật?” Tôi hỏi.
“Thì biên tập viên sẽ không duyệt nó chứ sao.” Tất nhiên là thế rồi. Những biên tập viên mới đảm nhiệm vị trí phải gặp Ban Tuyên giáo mỗi tuần một lần để nghe xem cái gì có thể và không thể viết về. “Nếu như có bài nào đó được duyệt, thì ngay sau đó họ sẽ nhận được cuộc gọi từ phía chính quyền và họ sẽ phải sửa nó.”
Nạn tham nhũng hiện đã được đưa tin tràn làn trên các phương tiện truyền thông, nhưng chỉ có những người ở cấp thấp bị điểm mặt chỉ tên, chẳng bao giờ thủ tướng hay quan chức cấp cao bị nhắc đến. “Khi báo chí nhắc đến nạn tham nhũng ở các cấp lãnh đạo cao, thì cả chính quyền nói chung sẽ bị đổ lỗi chứ không nhắc đến một ai cụ thể cả.”
Các trang mạng truyền thông xã hội không còn bị cấm nữa, nhưng vẫn bị theo dõi chặt chẽ. Nếu bạn phàn nàn về chính phủ trên Facebook thì cũng được thôi, dù chính phủ vẫn theo dõi. Nếu bạn phê phán chính phủ trong các nhóm trên Facebook, mọi chuyện có thể rắc rối hơn một chút. Và nếu bạn thực hiện nó ở ngoài đời thực và xuống đường biểu tình, thì mọi chuyện sẽ trở nên cực kỳ nghiêm trọng.
Cho dù có những hạn chế như thế, tôi vẫn cảm thấy Việt Nam thoải mái hơn so với bất kỳ quốc gia độc đảng nào mà tôi từng ghé thăm. Nó thoải mái hơn rất nhiều so với Cuba, anh em XHCN của Việt Nam. Chế độ nhà Castro bóp nghẹt mọi thứ trong khi chính quyền Việt Nam chỉ làm điều nó buộc phải làm để duy trì quyền lực, và có vẻ nghịch lý là điều này đã dẫn tới việc nới lỏng quyền kiểm soát của nó đối với đời sống của nhân dân, thay vì thắt chặt hơn.
Tunisia cũng có dáng dấp và cảm giác tương tự khi Ben Ali vẫn nắm quyền trước khi Mùa xuân Ả-rập khởi động, khi Christopher Hitchens đã láu lỉnh chỉ ra rằng “hệ thống chính quyền Tunisia kém thông minh và không dám chịu rủi ro hơn nhiều lần so với đại đa số người dân của nó”. Nếu không kể đến thể chế chính trị, thì mọi thứ đều tương đối ổn thỏa ở Tunisia khi tôi ghé thăm đất nước này lần đầu năm 2004. Nhà nước thì đúng là thối nát, nhưng xã hội tự nó cởi mở, khoan dung, thịnh vượng và phức tạp. Không có gì đáng ngạc nhiên – ít nhất là với tôi – rằng Tunisia đã chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ một cách êm thấm và không bị rơi vào tình trạng nội chiến hay sự phản ứng mạnh mẽ của chế độ độc tài như ở Syria, Libya hay Ai Cập.
Tôi có thể nhầm lẫn, nhưng tôi cảm nhận một cách mạnh mẽ rằng Việt Nam sẽ chuyển đổi êm thấm tương tự khi điểm kích hoạt được đạt đến. Nó đã trở nên thịnh vượng và tự do hơn bất kỳ thời điểm nào trong quá khứ. Mọi thứ đều tốt đẹp hơn, và đó là điều thường tạo ra sự chuyển đổi dân chủ thành công. Khi một lực lượng đáng kể những người trung lưu vừa vượt lên khỏi đói nghèo, họ có xu hướng thở dài nhẹ nhõm và chấp nhận với những gì đã đạt được. Nhưng khi một thế hệ mới ra đời không hề có trải nghiệm cá nhân về một quá khứ khó khăn, sự thiếu vắng tự do chính trị sẽ nặng nề hơn nhiều. Sau một thời gian dài sống trong an toàn thì ngay cả những người trung lưu lớn tuổi cũng đã bắt đầu lên tiếng đòi hỏi.
Cho dù điều gì xảy ra sau này, thì bây giờ người ta vẫn thấy rõ những điều đang xảy ra. Công dân Việt Nam và chính quyền đã đạt được một thỏa ước tạm thời: Nếu mày không động đến chúng tao, thì chúng tao sẽ không động tới mày. Đó là một tình trạng đáng buồn cho những ai có đầu óc chính trị tích cực, và nó đặc biệt đáng buồn cho những người như tôi, viết về chính trị để kiếm sống, nhưng đa số người Việt Nam trung thành với chủ nghĩa phi chính trị - tôi cho là một phần nào đó là vì họ buộc phải sống như thế, nhưng cũng bởi vì văn hóa hiện nay là quan tâm chủ yếu tới thương mại và phát triển kinh tế.
Tranh luận chính trị là trò tiêu khiển quốc gia ở phần lớn các nước Trung Đông bất chấp thực tế là rất ít người có tự do chính trị. Công dân không phải lúc nào cũng được nói về chính quyền của họ, nhưng rõ ràng họ có thể và đã nói về chính trị trong khu vực, cũng như về chính trị trong nước. Ở Trung Đông tôi cảm thấy như mình đang ở giữa một cuốn sách lịch sử đang mở ra. Ở Việt Nam cảm giác này ít hơn. Hiện tại là thời gian cho sự thay đổi, nhưng có rất ít những câu chuyện hàng ngày, ít thứ xảy ra công khai. Không có chiến tranh, không có cách mạng, và không có chủ nghĩa khủng bố.
Nhưng lịch sử còn lâu mới kết thúc ở Đông Nam Á. Trung Quốc đang gây hấn với cả khu vực. Quân đội Thái Lan lật đổ một chính quyền dân cử. Miến Điện cuối cùng đã chuyển hướng khỏi quá khứ đàn áp khốc liệt. Còn bao lâu nữa thì một điều tương tự sẽ xảy ra ở Việt Nam? Đáng ngạc nhiên là Miến Điện lại đi trước vì điểm khởi đầu của nó phải nói là thấp hơn nhiều, nhưng nếu nó có thể xảy ra ở Miến Điện thì cũng sẽ có thể xảy ra ở Hà Nội hoặc Sài Gòn.
Sự thiếu vắng những biến cố tồi tệ xảy ra và tạo ra sự thay đổi ở Việt Nam khiến công việc của tôi khó khăn hơn, nhưng một phần trong tôi không phải là phóng viên, mà là một con người bình thường, cảm thấy nó thật dễ chịu. Trung Đông có lẽ cần một khoảng thời gian nghỉ ngơi như Việt Nam đang có hiện nay. Nhưng khoảng thời gian nghỉ ngơi chắc chắn rồi sẽ qua đi. Bạn có thể cá đồng đô-la cuối cùng của mình vào điểm này.
* * *
Washington gây áp lực cho Hà Nội để đạt được những tiến bộ cụ thế thay vì nhắc đi nhắc lại về nhân quyền nói chung, điều này có lẽ sẽ mang lại hiệu quả. Các than phiền chung chúng có thể dễ dàng chối bỏ, nhưng sẽ khó hơn để bỏ qua những chỉ trích có định hướng từ những người bạn. Tiến bộ gần đây thì vẫn khiêm tốn, nhưng nếu so với thời kỳ 1970 và 1980 thì đã có thay đổi rất lớn.
“Gia đình tôi đã cố gắng rời đi những năm 1970 và không thành công”, Tuong Vi Lam nói với tôi. Cô lớn lên tại Sài Gòn trong chiến tranh, và gia đình của cô đã phải đối mặt với địa ngục khi phe cộng sản dành thắng lợi. “Bố và ông tôi làm việc cho chính quyền cũ, và tôi không có cơ hội nào khi chính quyền cộng sản tới. Bố tôi phải vô trại cải tạo. Ông bị buộc phải lao động nặng nhọc trên cánh đồng. Trại được lập ra nhằm mục đích cải tạo, nhưng thực tế nó là trại lao động. Ông không bị đánh đập, nhưng nhiều người khác bị và một số còn bị giết”.
“Lý do duy nhất ông bị gửi đi vào trại là vì ông đã làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ông không phạm một tội ác nào. Chính quyền cộng sản có danh sách với tên tất cả mọi người trong đó. Ông nhận được một thông báo qua bưu điện nói ông phải đến trình diện vào một ngày nhất định”
“Họ không bắt giữ ông ta?” Tôi hỏi.
“Họ bắt giữ một số người khi những người được lệnh phải trình diện không quay trở lại nhà,” she said.
“Tình hình miền Nam tồi tệ ra sao khi miền Bắc tiếp quản?” Tôi hỏi.
“Cực kỳ tồi tệ,” cô trả lời. “Tất cả trường học đều phải đóng cửa. Dì và chú của tôi đang học đại học cũng phải bỏ dở. Họ chỉ đơn giản là không thể đến trường được nữa. Tài sản bị tịch thu và chia cho những người ở miền Bắc. Đảng Cộng sản thậm chí còn tuyên truyền trong cả sách giáo khoa toán. Họ cho đề bài kiểu như: ‘Hôm qua một chú bộ đội đã giết 3 tên lính Mỹ và hôm nay giết được 5 tên. Tổng cộng chú bộ đội đã tiêu diệt được bao nhiêu lính Mỹ?’ Hiện tại thì trong sách không còn những câu hỏi kiểu như thế nữa, nhưng họ đã làm như vậy suốt khoảng năm đến mười năm gì đó.”
Bố của cô cuối cùng cũng thoát khỏi trại cải tạo và gia đình cô đã cố lên trốn lên một chiếc thuyền nhỏ rồi chuyển sang một chiếc thuyền to hơn. Thuyền to thì người đông nên mọi người phải tự nhồi nhau vào trong khoang. Và rồi họ bị bắt.
“Thế gia đình cô định đi đâu?” Tôi hỏi.
“Philippines hoặc Thái Lan. Họ có các trại dành cho người tị nạn ở đó. Nhưng Mỹ mới là điểm đến cuối cùng.”
Cuối cùng cô cũng làm được điều đó và hiện cô đang sống ở Oregon.
“Tại sao chính quyền lại quan tâm đến cả việc mọi người rời khỏi Việt Nam?” Tôi thắc mắc.
“Bởi vì chúng tôi đang cố bỏ nước mà đi chứ sao,” cô trả lời.
“Tôi biết, nhưng tại sao họ phải quan tâm đến chuyện đó? Họ có nói lý do là gì không?”
“Họ chỉ nói là chúng tôi đang cố bỏ nước ra đi,” cô đáp.
Hóa ra là vậy. Bị bỏ tù chỉ vì cố trốn thoát. Cả đất nước này vô hình trung đã biến thành một nhà tù lớn. Nhà tù thực sự chỉ là tù trong tù mà thôi.
“Họ không đưa ra bất kỳ lý do nào khác ư,” tôi tiếp tục, “ví dụ như buộc tội cô buôn lậu chẳng hạn? Họ chỉ nói rằng rời khỏi đất nước là phạm pháp à?”
“Nếu anh cố rời khỏi đất nước, anh sẽ bị bắt, thậm chí là cả trẻ con. Một tháng một lần người thân được phép lên thăm để tiếp tế thức ăn và thuốc. Bố tôi đã bị chuyển đến trại cải tạo và bị kết án giam giữ vô thời hạn. Nhưng ông đã trốn được.”
“Trốn bằng cách nào?”
“Tất cả tù nhân đều phải làm việc trên cánh đồng vào ngày và quay lại nhà tù vào buổi đêm,” cô trả lời. “Một hôm khi họ đang làm việc gần một con sông, mà bố tôi thì bơi cực giỏi. Khi lính gác không chú ý, ông đã ném một tảng đá lớn xuống nước và trốn sau bụi rậm. Họ cứ nghĩ rằng bố tôi đã nhảy xuống sông nhưng thực ra ông vẫn đang nấp đi và họ thì cứ quát tháo và xả súng liên tục. Khi màn đêm buông xuống, chẳng còn ai ở đó nữa thì bố tôi mới nhảy xuống sông, bơi một mạch khoảng 7 dặm và chạy đến nhà người thân của mẹ tôi. Họ cho bố tôi ít tiền và ông đã đi xe bus về Sài Gòn. Mặc dù không thể trở về nhà nhưng ông vẫn có thể lẩn trốn giữa hàng triệu người ở thành phố này. Cuối cùng chúng tôi thoát được sang Mỹ và bố tôi đã không quay lại Việt Nam suốt 20 năm qua.”
* * *
Thành tích tôn trọng quyền con người của chính phủ Việt Nam khó có thể coi là lý tưởng, và thậm chí là không thể dung thứ nếu xét theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, nhưng chính phủ đang cải thiện dần và rõ ràng là hiện tại đã tốt hơn trước rất nhiều. Ít nhất đó cũng là điều đáng để công nhận.
Việt Nam không có nhiều tự do báo chí, nhưng sách báo và tạp chí nước ngoài vẫn bán nhan nhản. Internet cũng vậy, có đầy đủ thông tin từ mọi nơi về mọi thứ. Tất nhiên là vẫn chưa đủ - báo chí nước ngoài và các websites hiếm khi bao trùm đầy đủ các vấn đề nội địa của Việt Nam – nhưng vậy còn hơn không. Ít nhất mọi người đã có ý niệm về những gì đang diễn ra bên ngoài biên giới nước họ, không như những thân phận nô lệ tội nghiệp ở Bắc Triều Tiên.
Dù biểu tình là phạm pháp nhưng một số người vẫn xuống đường và tiến hành biểu tình theo cách nào đó. Đến lúc – không thể tránh được – sẽ có rất nhiều người lên tiếng yêu cầu sự thay đổi cùng một lúc khiến nỗi sợ hãi bị đàn áp hoàn toàn biến mất.
Không thể nói chắc, nhưng Việt Nam có lẽ chỉ cần một sự kiện, một cuộc cải cách, hay một cuộc biểu tình đông đảo để chuyển đổi sang tự do dân chủ. Khoảnh khắc then chốt của lịch sự luôn luôn không đoán trước được. Không ai có thể tiên đoán rằng công dân Mohammad Bouazizi của Tunisia sẽ tự thiêu và chính điều đó đã châm ngòi cho sự kiện Mùa Xuân Ả Rập. Chế độ độc tài có thể giữ vững sự ổn định cho đến khi nó không thể giữ nữa. Cuối cùng thì nó sẽ phải thất bại.
Thành tích nhân quyền của mỗi quốc gia trên thế giới đều được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn như nhau. Đồng thời, việc tăng điểm cho một quốc gia vì đã có cải thiện trong vấn đề nhân quyền chỉ thực sự công bằng nếu như việc cải thiện đó là thành thật. Người ta không nên trông đợi một chế độ độc tài tự thu bàn tay quyền lực của mình lại và chuyển giao sang chế độ dân chủ kiểu Jefferson. Đấy không phải là cái cách mà lịch sử diễn ra.
Peter Peterson – cựu tù binh trong chiến tranh Việt Nam, cựu nghị sĩ đảng dân chủ của bang Florida, đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam kể từ sau chiến tranh – cũng nghĩ tương tự.
“Khi còn là đại sứ,” ông ấy kể, “tôi thực sự muốn xác định được quá trình tiến bộ hơn là so sánh Việt Nam với lý tưởng một trăm phần trăm. Việt Nam đã làm tốt, và sẽ còn tốt hơn nữa. Nếu bạn vẽ đồ thị thể hiện điều đó, chắc chắn bạn sẽ thấy được sự tiến bộ.”
Hàng triệu công dân không còn chạy trốn khỏi đất nước nữa. Trại cải tạo cũng không tồn tại. Địa chủ đã hết bị hành quyết. Facebook không bị cấm. Những người bản địa giờ đã được phép nói chuyện với du khách nước ngoài. Những trang web và báo chí nước ngoài từng bị kiểm duyệt thì giờ người dân đã có thể đọc.
“Tuy nhiên, hiện tại vẫn có những vi phạm,” Peterson nói. “Chính phủ vẫn không chấp nhận sự phản đối và những người bất đồng chính kiến vẫn phải ẩn mình. Có quá nhiều sự kiểm duyệt, bao gồm cả việc tự kiểm duyệt. Chẳng ai muốn mình là kẻ đi đầu để bị đàn áp đầu tiên cả.”
Tuy nhiên, giờ Hoa Kỳ đã có mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam, như nó đáng phải như vậy. Chiến tranh đã qua lâu rồi. Cả hai nước đều chia sẻ chung một tầm nhìn chiến lược vì Đông Nam Á, và người dân hai nước, dù đã có một khoảng thời gian trong quá khứ khá tồi tệ, vẫn quý mến nhau.
Tôi đã hỏi Peterson xem ông nghĩ quan niệm sai lầm nhất của người Mỹ về Việt Nam là gì, và tôi toàn hoàn đồng ý với câu trả lời của ông ấy.
“Không chỉ người dân Mỹ mà tất cả mọi người trên thế giới đều không hề biết Việt Nam to lớn đến mức nào. Nó không chỉ là cái ổ gà trên đường mà chúng ta có thể làm ngơ. Đó là đất nước đông dân thứ 13 trên thế giới với nền kinh tế, quân sự và năng lực chiến lược cực kỳ hùng hậu. Việt Nam không đáng để bị làm ngơ nhưng thực tế nó đang bị như vậy. Nếu không cẩn thận, điểm mù của chúng ta sẽ tạo ra một khoảng trống bị lấp đầy bởi những người hoặc những thứ mà chúng ta không hề thích.”

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"