Richard Javad Heydarian | Asia Times Online
Ngọc Hoà dịch
Ngọc Hoà dịch
MANILA – Sau nhiều tuần lễ căng thẳng để chuẩn bị cho chuyến lưu
diễn châu Á của Tổng thống Barack Obama, mà nhiều người dự kiến nhà lãnh
đạo Mỹ sẽ tạo ra một dấu ấn chiến lược lớn hơn của Mỹ trong khu vực,
thì một bế tắc xảy ra không đúng lúc và cay đắng tại Washington buộc ông
ta phải hủy chuyến đi.
Liệu Mỹ có đủ năng lực để trở thành cái neo cho sự ổn định trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương? (Ảnh: Internet)
Giữa lúc chính phủ liên bang lần đầu tiên đóng cửa kể từ khi lên nắm
quyền sau chính quyền Clinton, Nhà Trắng lần đầu tiên công bố quyết định
bỏ qua cuốc viếng thăm Malaysia và Philippines của Tổng thống Obama.
Các cuộc viếng thăm cấp cao tới Indonesia cho Hội nghị thượng đỉnh Hợp
tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) và Brunei cho Hội nghị
thượng đỉnh Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) cũng bị hủy bỏ.
Trong khi nhiều đối tác Châu Á bày tỏ sự đánh giá cao đối với những
ưu tiên trong nước của Tổng thống Obama, vẫn đọng lại cảm giác rõ ràng
về sự vắng mặt. Trong bối cảnh có những lo ngại kéo dài về cam kết của
Mỹ trong khu vực, bên cạnh sự cắt giảm ngân sách quốc phòng sâu rộng và
những ưu tiên chính sách vẫn dành cho cuộc khủng hoảng ở Trung Đông,
nhiều đồng minh châu Á đã hy vọng ông Obama sẽ sử dụng chuyến đi Châu Á
để củng cố sự ủng hộ và đưa ra tín hiệu can dự sâu rộng hơn.
“Mặc dù về mặt chính trị, chúng tôi hiểu được lý do dẫn đến quyết
định của tổng thống, nhưng điều đó vẫn gây thất vọng cho tất cả những
người tham gia”, một quan chức Bộ Ngoại giao người Brunei cho biết với
điều kiện giấu tên. “Tôi chắc rằng mọi người đều hướng về hình ảnh lộng
lẫy của một chuyến viếng thăm của tổng thống.”
Trong số những tiếng nói năng động và chủ động nhất về cuộc chơi
chiến lược trong khu vực, trái với thường lệ, Thủ tướng Singapore Lý
Hiển Long đánh giá thẳng thừng. “Hoa Kỳ phải tiếp tục tham gia vào khu
vực này vì nước này đóng một vai trò rất quan trọng mà không một quốc
gia nào khác có thể thay thế, không phải Trung Quốc, không phải Nhật
Bản, cũng không bất cứ cường quốc nào khác”, ông Lý nói.
Sự vắng mặt của Tổng thống Obama ở châu Á củng cố cho hai nhận thức
cơ bản trong số các đồng minh và kể cả kẻ thù. Trước tiên, nó báo hiệu
một vị thế tương đối không quan trọng của họ trong tính toán chiến lược
của Tổng thống Obama. Thứ hai, có lẽ còn quan trọng hơn, đó là cuộc
khủng hoảng đóng cửa chính phủ đã phơi bày mặt trái của nền dân chủ Mỹ,
cho thấy những rạn nứt ghê gớm về tư tưởng và phá hoại uy tín của các
thể chế nhà nước của quốc gia.
Bên cạnh sự phục hồi kinh tế yếu kém, nhiều đồng minh châu Á bây giờ
tự hỏi liệu Mỹ có đủ năng lực chính trị hoặc kinh tế để trở thành cái
neo cho sự ổn định trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Đồng minh cô đơn
Trong những tháng gần đây, ông Obama đã chìa tay ra với các đối thủ
chiến lược, từ cuộc gặp gỡ áo sơ mi cộc tay với Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình tại khu bất động sản Sunnylands riêng biệt tại California hồi
đầu tháng Sáu, cho đến cú điện thoại lịch sử của ông ta cuối tháng chín
với Tổng thống Iran, ông Hassan Rouhani ở New York.
Ngược lại, ông Obama vẫn chưa viếng thăm Manila. Trong khi người
Philippines dành cho Hoa Kỳ sự đánh giá cao nhất thế giới (85%), theo
một khảo sát gần đây của Dự án Thái độ Toàn cầu của Trung tâm Nghiên cứu
Pew, nước này bị phụ thuộc sâu sắc vào sự hỗ trợ quân sự của Mỹ để đối
đầu với những thách thức an ninh trên cả hai mặt trận phía nam
(Mindanao) và phía Bắc (Biển Đông).
Chuyến thăm dự kiến của Tổng thống Obama đến Manila do đó được coi
vừa là một biểu tượng, vừa là sự bày tỏ cam kết xác thực của Washington
đối với quan hệ song phương Mỹ – Philippines. Một thời gian ngắn trước
cuộc viếng thăm dự kiến, các quan chức cao cấp Philippines bày tỏ hy
vọng rằng chuyến thăm của nhà lãnh đạo Mỹ có thể trùng hợp với việc ký
kết một hiệp định khung quốc phòng mới, nếu sau đó đưa vào luật thì nó
sẽ cho phép Mỹ mở rộng sự hiện diện quân sự luân phiên trên đất
Philippines, đặc biệt tại căn cứ Clark và căn cứ Subic.
“[Chuyến thăm của Tổng thống Obama] có ý nghĩa khá quan trọng bởi vì
nó xác nhận giá trị mối quan hệ của chúng tôi”, Ngoại trưởng Philippines
Albert Del Rosario cho biết trong một buổi điều trần ngân sách tại Quốc
hội Philippines vào cuối tháng Chín, phản ánh dự đoán của chính phủ vào
thời điểm đó. “Chúng tôi hy vọng sẽ đạt được thỏa thuận khung vào thời
điểm đó, nhưng chúng tôi sẽ xem điều gì sẽ xảy ra.”
Trước mối lo ngại ngày càng tăng về tính hợp hiến của thỏa thuận
chiến lược mới được đề xuất với Mỹ, với chính phủ Philippines khẳng định
đó là một thỏa thuận hoàn toàn thuộc quyền của cơ quan hành pháp mà
không cần Thượng viện phê chuẩn, các quan chức Philippines hy vọng rằng
sức thu hút của ông Obama sẽ gây ảnh hưởng đến công chúng nói chung và
làm nguôi giận các nhà chỉ trích trong cơ quan lập pháp và xã hội dân
sự.
Đằng sau thỏa thuận là một nhu cầu mạnh mẽ có tính cấp bách về mặt
chiến lược. Philippines hiện đang bị kẹt trong một tranh chấp lãnh thổ
gay gắt với Trung Quốc trên các vùng Biển Đông. Khi thiếu vắng các cuộc
họp song phương cấp cao, các kênh giao tiếp hiệu quả đã thất bại.
Các báo cáo cho biết Trung Quốc đang phát triển xây dựng các cơ sở
trên những vùng gây tranh chấp như bãi cạn Scarborough và mở rộng các
cuộc tuần tra bán quân sự của họ trong các vùng biển tranh chấp khác,
điều đó nhấn mạnh sự bất lực của Manila trong việc đương đầu với sức
mạnh hải quân của Trung Quốc. Chuyến thăm của ông Obama đã có thể giúp
làm giảm bớt cảm giác dễ bị tổn thương và xua tan những nghi ngờ về cam
kết của Washington đối với vấn đề an ninh quốc gia của đồng minh có hiệp
ước với nước này.
Trò chơi tổng bằng không
Các nước Đông Nam Á nhỏ hơn có truyền thống tìm cách cân bằng giữa
các cường quốc với nhau, nuôi dưỡng những mối quan hệ đặc biệt với từng
nước trong số họ qua thời gian. Trong khi Mỹ chủ yếu được đối xử như là
một đối tác chiến lược quan trọng về sự ổn định khu vực, ngược lại Trung
Quốc nổi lên như một đối tác kinh tế chủ chốt.
Những năm gần đây cho thấy giữa các làn ranh quân sự và thương mại
đang mờ dần, khi cả Mỹ và Trung Quốc đều tìm cách gây ảnh hưởng về kinh
tế và chiến lược của mỗi bên trong khu vực. Chính quyền Obama đã tìm
cách đối trọng với sức mạnh khu vực ngày càng tăng của Trung Quốc bằng
cách kết hợp củ cà rốt kinh tế với một dấu ấn quân sự lớn hơn trong khu
vực.
“Sau một thập kỷ chiến đấu với hai cuộc chiến tranh đắt giá bằng
xương máu và tài sản của đất nước, Hoa Kỳ đang chuyển sự chú ý đến khu
vực Châu Á Thái Bình Dương với nguồn tiềm năng to lớn”, ông Obama tuyên
bố tại quốc hội Úc vào tháng Mười năm 2011. “Là khu vực phát triển nhanh
nhất trên thế giới, khu vực Châu Á Thái Bình Dương rất quan trọng cho
việc đạt được ưu tiên cao nhất của tôi, đó là tạo ra công ăn việc làm và
cơ hội cho người dân Mỹ.”
Củ cà rốt kinh tế cơ bản của ông Obama là thỏa thuận thương mại tự do
xuyên Thái Bình Dương (TPP) gồm 12 quốc gia, có tham vọng chiếm một
phần ba thương mại thế giới và khoảng 40 % tổng sản phẩm quốc nội GDP
toàn cầu, nhưng không bao gồm Trung Quốc. Tuy nhiên, sau 18 vòng đàm
phán, những vấn đề chính trị quan trọng liên quan đến những hạn chế về
mua sắm chính phủ, về sự cắt giảm nguồn tiếp cận dịch vụ công đối với
người tiêu dùng, về sự áp đặt các quyền sở hữu trí tuệ nghiêm ngặt hơn
đã trở thành những vấn đề gây khúc mắc. Chuyến đi của ông Obama đã có
thể tạo ra một cơ hội để vận động trực tiếp các quốc gia châu Á như Nhật
Bản, Malaysia và Việt Nam, hiện đều đang tạo lá chắn, để tham gia vào
TPP.
“Một mặt, TPP được thiết kế như một lựa chọn thứ hai tốt nhất để thúc
đẩy lợi ích doanh nghiệp thông qua thương mại tự do thay cho sự bế tắc
tại [Tổ chức Thương mại Thế giới ]. Mặt khác, nó là một kế hoạch địa
kinh tế do Mỹ dẫn đầu được thiết kế để ngăn chặn sức mạnh kinh tế của
Trung Quốc bằng cách loại trừ để nước này không hưởng những lợi thế ưu
đãi mà các thành viên sẽ được hưởng.” Ông Walden Bello, một trong số
những chuyên gia nổi tiếng nhất ở châu Á về các vấn đề liên quan đến
thương mại, lập luận. “Hai mục tiêu này là những mục đích đối chọi nhau.
Trung Quốc thậm chí còn không cần khởi động một khối đối trọng. Nước
này chỉ cần ngồi yên và nhìn sáng kiến TPP sụp đổ.”
Lựa chọn khác về kinh tế
Trung Quốc đang thúc đẩy một khối kinh tế khác, đó là Hợp tác Kinh tế
Toàn diện ở Đông Á. Với sự vắng mặt của Tổng thống Obama tại Hội nghị
Cấp cao châu Á gần đây, ông Tập được đứng dưới ánh đèn sân khấu. Ông ta
là nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên có bài phát biểu tại Quốc hội
Indonesia, trở thành diễn giả chính tại Hội nghị thượng đỉnh APEC, và
được lên kế hoạch đến thăm Malaysia để làm sâu sắc hơn các mối quan hệ
song phương và xoa dịu những căng thẳng trên những vấn đề tranh chấp
Biển Đông.
Chuyển đổi sức mạnh kinh tế vào tầm ảnh hưởng chiến lược, ông Tập
giới thiệu một Ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng châu Á với số vốn 50
tỷ USD – sánh tầm với Ngân hàng Phát triển Châu Á do Mỹ – Nhật Bản dẫn
đầu (ADB) – để thu hút các nước láng giềng Đông Nam Á. Trong khi đó, Thủ
tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường sử dụng vị thế gia tăng của đất nước
mình để gạt những tranh chấp trong vùng Biển Đông sang một bên, làm mất
mặt Philippines và nhấn mạnh đến việc cần phải ưu tiên các mối quan hệ
kinh tế cao hơn những vấn đề lãnh thổ khó giải quyết.
Bất chấp những nỗ lực của Hoa Kỳ, Nhật Bản, và Úc để đưa tranh chấp
Biển Đông vào trung tâm của chương trình nghị sự Hội nghị thượng đỉnh
ASEAN, cuộc họp kết thúc mà không đưa ra được một kế hoạch rõ ràng nào
hoặc một đà phát triển hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc
cho một giải pháp hòa bình dựa trên cơ sở luật pháp đối với các tranh
chấp ở Biển Đông. Nhiều người ở Manila đã hy vọng sự hiện diện và thúc
đẩy của Tổng thống Obama sẽ đưa vấn đề này trở thành mũi nhọn của Hội
nghị thượng đỉnh.
Thay vào đó, sự cạnh tranh Trung-Mỹ giành uy thế toàn diện tại khu
vực đã dẫn đến một động lực có tổng bằng không. Trong cuộc chơi đó, sự
vắng mặt của ông Obama ở châu Á được xem như là một thất bại chiến lược
quan trọng của Mỹ và tạo ra một cảm giác đột ngột bị cô đơn giữa các
đồng minh chiến lược châu Á của nước này.
[*] Richard Javad Heydarian là một chuyên gia phân tích các vấn
đề đối ngoại có trụ sở tại Manila tập trung vào vấn đề Biển Đông và các
vấn đề an ninh quốc tế. Ông là một giảng viên tại Khoa Chính trị của Đại
học Ateneo De Manila (ADMU), và đồng thời là tác giả của cuốn sách sắp
phát hành “Từ Mùa xuân Ả Rập đến Mùa hè Ả Rập: Các nguyên do kinh tế và
tương lai bấp bênh của các cuộc nổi dậy ở Trung Đông”. Có thể liên lạc
với ông qua địa chỉ email: jrheydarian@gmail.com.
Nguồn: Richard Javad Heydarian, “Obama no-show isolates allies“, Asia Times Online, ngày 11 Tháng 10 2013.
Bản Tiếng Việt © 2013 The Pacific Chronicle