Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 trên cơ sở ý kiến của nhân dân và đại biểu QH

BÁO CÁO

Một số nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến
của nhân dân và của các vị đại biểu Quốc hội
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIII, Quốc hội đã thảo luận về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cho rằng, Nghị quyết số 38 của Quốc hội về tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai sâu rộng, nghiêm túc, thu hút được sự tham gia tích cực, tâm huyết của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Các vị đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với bố cục và nội dung Dự thảo, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến cụ thể, xác đáng để hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (DTSĐHP) đã chỉ đạo Ban biên tập nghiên cứu, tiếp thu nghiêm túc ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội; tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm, làm việc với cấp ủy, chính quyền một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, xin ý kiến của Đảng đoàn Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, trình xin ý kiến Bộ Chính trị, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (Khóa XI); đồng thời, tiếp tục tiếp nhận, tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân để chỉnh lý Dự thảo. Dự thảo sau khi tiếp thu, chỉnh lý gồm 11 chương, 120 điều (giảm 4 điều so với Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5). Dự thảo trình Quốc hội lần này đã được chỉnh lý một cách hợp lý, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bám sát Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), nghị quyết của các Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Ủy ban DTSĐHP xin trân trọng báo cáo Quốc hội một số nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân và của các vị đại biểu Quốc hội như sau:

1. Về Lời nói đầu
Các ý kiến của nhân dân và của đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với nội dung của Lời nói đầu như Dự thảo(1). Có ý kiến đề nghị chỉnh sửa Lời nói đầu cho khái quát, ngắn gọn, súc tích và chính xác hơn, tránh sự trùng lặp.
Ủy ban DTSĐHP đã tiếp thu ý kiến trên và đã thể hiện lại Lời nói đầu như Dự thảo.
2. Chế độ chính trị (Chương I)
Đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về chế độ chính trị (Chương I) của Dự thảo; đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
Về tên nước (Điều 1): Qua tổng hợp ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội, đại đa số ý kiến tán thành việc giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2). Tuy nhiên, vẫn có ý kiến đề nghị lấy lại tên nước là “Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
Qua nghiên cứu, xem xét nhiều mặt, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giữ tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết để thể hiện nhất quán mục tiêu, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hơn nữa, tên gọi này đã được Quốc hội lựa chọn ngay sau ngày nước nhà thống nhất, đã thân quen với nhân dân ta, được bạn bè và các nước công nhận, trân trọng. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về bản chất Nhà nước (Điều 2): Qua thảo luận, nhiều ý kiến tán thành quy định tại Điều 2 của Dự thảo(3). Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị thay cụm từ “nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” bằng cụm từ “nền tảng là khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Ý kiến khác đề nghị chỉ quy định ngắn gọn “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên Hiến pháp cần thể hiện rõ bản chất giai cấp của Nhà nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992, tiếp tục quy định: “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Quy định như vậy là phù hợp với Cương lĩnh và các văn kiện chính trị khác của Đảng khi xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta.
Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4): Qua tổng hợp ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cho thấy, tuyệt đại đa số ý kiến nhân dân và các đại biểu Quốc hội tán thành việc khẳng định trong Hiến pháp vai trò lãnh đạo của Đảng và những nội dung thể hiện tại Điều 4 của Dự thảo(4). Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị nên viết gọn lại theo hướng chỉ ghi vai trò lãnh đạo của Đảng, còn bản chất của Đảng, trách nhiệm của Đảng thì không quy định trong Hiến pháp mà quy định trong Điều lệ Đảng; một số ý kiến đề nghị cần khẳng định rõ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội; đề nghị quy định Đảng phải chịu trách nhiệm về sự lãnh đạo của mình.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, quy định về Đảng trong Dự thảo Hiến pháp lần này đã thể hiện đầy đủ những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011). Đó là: Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; bản chất giai cấp của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc; trách nhiệm của Đảng là phải gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Quy định như vậy là phù hợp với thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam; là sự tiếp tục kế thừa các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)); phù hợp với truyền thống lịch sử của cách mạng Việt Nam, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP xin đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Điều 4 của Dự thảo.
Về hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6): Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn về các hình thức dân chủ trực tiếp để bảo đảm tính cân đối trong quy định về hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tuy nhiên, nhiều ý kiến khác cho rằng, Hiến pháp chỉ nên quy định khái quát về hình thức dân chủ trực tiếp còn những vấn đề cụ thể để thực hiện dân chủ trực tiếp sẽ do luật quy định.
Tiếp thu ý kiến này của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã chỉnh lý lại Điều này như sau:“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước”.
Về nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 8): Nhiều ý kiến đồng ý với quy định tại Điều này, song có ý kiến đề nghị không quy định nguyên tắc tập trung dân chủ trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước ta, đã được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1959 đến nay. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như đã thể hiện tại Điều 8 của Dự thảo.
Về Công đoàn Việt Nam (Điều 10): Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 là không quy định một điều riêng về Công đoàn Việt Nam mà chuyển nội dung về Công đoàn tại Điều 10 vào quy định cùng các tổ chức chính trị – xã hội khác tại Điều 9(5).
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 tiếp tục quy định về Công đoàn tại Điều 10 của Dự thảo để đề cao vai trò tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam và vị trí, vai trò đặc biệt của Công đoàn ở nước ta(6).
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp tục giữ Điều 10 trong Dự thảo như các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 để khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong lịch sử cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, Dự thảo Hiến pháp cũng đã bổ sung quy định về các tổ chức chính trị – xã hội khác tại khoản 2 Điều 9.
3. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương II)
Qua thảo luận, các ý kiến phát biểu cơ bản tán thành với nội dung quy định về vị trí, bố cục của Chương II(7) và cho rằng, quy định như vậy đã thể hiện rõ tầm quan trọng của vấn đề quyền con người, quyền công dân và quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Dự thảo có nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Quy định về quyền con người và quyền công dân tại Chương này là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và là kết quả, thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Một số ý kiến đề nghị chỉnh lý một số từ ngữ và điều khoản cụ thể.
Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật tại các Điều 14, 15, 19, 21, 22, 24, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 37,… bảo đảm sự nhất quán, chính xác và hợp lý hơn.
Về các quy định về quyền con người, quyền công dân (Điều 14): Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định tại Điều 14, bởi vì quy định như trong Điều 14 các quyền con người, quyền công dân “được quy định trong Hiến pháp và luật” là chưa đầy đủ, chưa phù hợp vì còn có nhiều quyền tuy không được quy định trong Hiến pháp và luật nhưng vẫn được tôn trọng, bảo đảm.
Ủy ban DTSĐHP xin tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lại quy định tại Điều này như sau: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.”
Về mức độ giới hạn quyền con người, quyền công dân (Điều 14): Có ý kiến tán thành với quy định “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế ở mức độ cần thiết trong trường hợp khẩn cấp vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” như trong Dự thảo trình Quốc hội. Tuy nhiên, ý kiến khác cho rằng, quyền con người, quyền công dân không thể bị hạn chế một cách tùy tiện mà phải theo quy định của luật; cần quy định cơ quan nào có thẩm quyền giới hạn và xác định những quyền nào là quyền không thể bị giới hạn. Có ý kiến cho rằng quy định hạn chế quyền con người, quyền công dân “trong trường hợp khẩn cấp” là không chính xác và chưa đầy đủ, do đó, đề nghị bỏ cụm từ này. Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “trật tự công cộng” bằng cụm từ “trật tự an toàn xã hội”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Do vậy, việc hạn chế các quyền này phải được quy định chặt chẽ trong luật để tránh nguy cơ tùy tiện, lạm dụng. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên cũng yêu cầu quy định chặt chẽ vấn đề này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nói trên và chỉnh lý lại khoản 2 Điều 14 như sau: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Về chính sách đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách của Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước phát triển kinh tế nhằm thu hút mạnh nguồn lực đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, đồng thời, tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài yên tâm đầu tư về nước, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định “Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài (…) giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước” đã thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, trong đó đã bao hàm nội dung thu hút đầu tư về trong nước, do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này theo hướng khái quát như đã thể hiện trong Dự thảo.
Về bình đẳng và bình đẳng giới (Điều 26): Có ý kiến đề nghị sửa lại Điều 26 theo hướng “Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về mọi mặt, về chính trị, dân sự, kinh tế – xã hội và gia đình”, đồng thời, bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” vì việc tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn cao, liên quan tới mục tiêu, chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới và đã được quy định trong Luật bình đẳng giới. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và chỉnh lý lại Điều 26 như sau:
“1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội.
3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.”
Về nguyên tắc “suy đoán vô tội” (Điều 31): Có ý kiến đề nghị cân nhắc cách thể hiện quy định tại khoản 1 Điều này; thay từ “không có tội” bằng cụm từ “chưa có tội”; bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định”.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, khoản 1 Điều 31 quy định nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự là “suy đoán vô tội”. Quy định “người bị buộc tội được coi là không có tội” sẽ khẳng định nguyên tắc này một cách chặt chẽ và rõ ràng. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ cụm từ “không có tội”, đồng thời, tiếp thu ý kiến bỏ cụm từ “được chứng minh theo trình tự luật định” trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, vấn đề này sẽ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 31 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thể hiện lại như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Về chính sách đối với người cao tuổi (Điều 37): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về chính sách đối với người cao tuổi.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho bổ sung vào khoản 3 Điều 37 nội dung: “Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Về từ ngữ cụ thể: Có ý kiến cho rằng, Chương II dùng quá nhiều từ “nghiêm trị”, “nghiêm cấm”, “có thể”, “không thể”, đề nghị cân nhắc bỏ các cụm từ này; đồng thời cũng cần rà soát để sử dụng cho thống nhất cụm từ “theo quy định của pháp luật” hay “theo quy định của luật” hay “do luật định” hoặc không quy định những cụm từ này trong Hiến pháp.
Tiếp thu ý kiến này, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, chỉnh lý lại việc sử dụng các từ, cụm từ này cho chính xác và thống nhất trong Dự thảo.
4. Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III)
Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường (Chương III) của Dự thảo(8); đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
Về các thành phần kinh tế (khoản 1 Điều 51): Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 có 3 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với Phương án 1 nêu rõ các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế như đã ghi trong Cương lĩnh(9).
Loại ý kiến thứ hai tán thành với Phương án 2 quy định khái quát vai trò của các thành phần kinh tế nhưng cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước(10).
Loại ý kiến thứ ba tán thành với Phương án 3 quy định khái quát mà không quy định cụ thể vai trò của thành phần kinh tế để vừa thể hiện được nội dung Cương lĩnh, vừa phù hợp với tính chất và cách thể hiện của Hiến pháp(11).
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quy định về các thành phần kinh tế trong cả 3 phương án trình Quốc hội tuy cách thể hiện có khác nhau nhưng đều trên tinh thần và nội dung của Cương lĩnh. Nếu quy định đầy đủ các thành phần kinh tế như Phương án 1 thì phù hợp với cách thể hiện trong Cương lĩnh nhưng sẽ không bảo đảm tính khái quát và ổn định lâu dài của Hiến pháp do nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Nếu không liệt kê các thành phần kinh tế như Phương án 3 thì tuy bảo đảm tính khái quát, ổn định của Hiến pháp nhưng lại không thể hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta thì vai trò định hướng, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước và kinh tế nhà nước là rất quan trọng. Quy định như vậy để thể hiện hạ tầng kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, Hiến pháp cần hiến định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội quy định về nội dung này tại khoản 1 Điều 51 như sau: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”.
Về quy định bảo đảm của Nhà nước trong việc bảo hộ tài sản của tổ chức, cá nhân (khoản 3 Điều 51): Có ý kiến đề nghị bỏ quy định “Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” tại khoản 3 Điều 51.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, mặc dù các quy định liên quan đến quyền sở hữu, tự do kinh doanh đã được thể hiện trong Chương II “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” nhưng để khẳng định cụ thể hơn sự bảo đảm của Nhà nước đối với các tài sản hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài (như Điều 25 của Hiến pháp hiện hành) thì quy định về bảo hộ tài sản ở Chương về kinh tế là cần thiết. Quy định như vậy nhằm hiến định chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta đối với tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để nhà đầu tư yên tâm sản xuất, kinh doanh, ổn định môi trường đầu tư, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Về thu hồi đất (khoản 3 Điều 54): Qua tổng hợp ý kiến về vấn đề này, có các loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quy định về thu hồi đất tại khoản 3 Điều 54 của Dự thảo trong trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế – xã hội(12);
Loại ý kiến thứ hai đề nghị chỉ thu hồi đất đối với 3 trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà không quy định trường hợp để thực hiện “các dự án phát triển kinh tế – xã hội”. Bởi vì, bản thân các dự án phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều trường hợp cũng đã được thể hiện khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện các dự án vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Quy định như vậy cũng tránh được việc lạm dụng trong thu hồi đất;
Loại ý kiến thứ ba đề nghị không quy định về thu hồi đất trong Hiến pháp mà để Luật đất đai quy định thì bảo đảm tính linh hoạt hơn trong quản lý đất đai.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, quyền sử dụng đất là quyền quan trọng của người dân nên Hiến pháp cần phải quy định chặt chẽ những trường hợp thu hồi. Đây sẽ là cơ sở quan trọng cho Luật đất đai quy định nhằm tránh việc lạm dụng để thu hồi đất tràn lan, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay, vẫn cần thiết phải thu hồi đất vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, việc thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế – xã hội gắn trực tiếp với lợi ích của người sử dụng đất và doanh nghiệp nên cần phải quy định chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch và có bồi thường. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho phép chỉnh lý khoản 3 Điều 54 như sau: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; vì lợi ích quốc gia, công cộng, phát triển kinh tế – xã hội. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật”.
Về trưng dụng đất (khoản 4 Điều 54): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc Nhà nước trưng dụng đất để đáp ứng yêu cầu trưng dụng đất có thời hạn trong một số trường hợp đặc biệt như chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, trường hợp phải đối phó với nguy cơ hoặc khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.
Để thống nhất với quy định tại Điều 32 của Dự thảo Hiến pháp, đồng thời làm cơ sở cho việc cụ thể hóa các quy định về trưng dụng đất trong Luật đất đai và các luật có liên quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và bổ sung quy định: “Việc Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp đặc biệt do luật định” vào khoản 4 Điều 54 của Dự thảo.
Về bình đẳng trong chính sách xã hội (Điều 59): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về sự bình đẳng trong việc hưởng thụ chính sách xã hội tại Điều 59.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến này và bổ sung quy định về trách nhiệm “tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội” vào khoản 2 Điều 59.
Về trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục (Điều 61): Có ý kiến cho rằng quy định của Dự thảo chưa thể hiện rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong phát triển giáo dục và đào tạo.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên để thể hiện lại các quy định về giáo dục cho rõ ràng, cụ thể hơn, khẳng định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong phát triển giáo dục và đào tạo như trong Điều 61 của Dự thảo.
5. Về bảo vệ Tổ quốc (Chương IV)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về bảo vệ Tổ quốc tại Chương IV của Dự thảo(13); đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
Về quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng (Điều 65) và bản chất “cách mạng” (Điều 66): Các ý kiến cơ bản tán thành với quy định lực lượng vũ trang trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam như Dự thảo. Có ý kiến đề nghị giữ nguyên Điều 45 của Hiến pháp 1992 mà không bổ sung quy định này.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, lực lượng vũ trang của nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và rèn luyện. Lịch sử cách mạng của dân tộc ta đã chứng minh bản chất cách mạng và sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, để khẳng định bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, cần quy định rõ trong Hiến pháp nghĩa vụ trung thành của lực lượng vũ trang với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và Nhà nước là cần thiết. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về nội dung này như trong Dự thảo.
Về vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng (Điều 66): Có ý kiến đề nghị bổ sung vào Điều 66 nội dung Quân đội nhân dân “làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”.
Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu ý kiến nêu trên và chỉnh lý lại Điều 66 như sau:“Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; xây dựng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp.”
6. Về Quốc hội (Chương V)
Qua tổng hợp, đa số ý kiến nhân dân và đại biểu Quốc hội tán thành với quy định về Quốc hội (Chương V) của Dự thảo(14); đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
Về thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách (khoản 4 Điều 70): Dự thảo trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 của Dự thảo, Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước(15);
Loại ý kiến thứ hai tán thành với phương án 2 của Dự thảo trình Quốc hội về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định dự toán và phân bổ ngân sách trung ương; phê chuẩn quyết toán ngân sách trung ương; xem xét báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước(16).
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Nhà nước ta là thống nhất, tài chính nhà nước và ngân sách nhà nước là thống nhất. Vì vậy, việc giao thẩm quyền quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước cho Quốc hội là phù hợp với vị trí, vai trò và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Việc giao thẩm quyền này cho Quốc hội cũng không hạn chế quyền tự chủ của địa phương trong vấn đề ngân sách. Trên thực tế, việc dự toán và quyết định ngân sách cũng đang thực hiện theo cơ chế này và không có gì vướng mắc. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này và thể hiện lại khoản 4 Điều 70 như sau: “… quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước”.
Về thẩm quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70): Có ý kiến đề nghị không quy định thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vì cho rằng số lượng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là khá lớn, việc giao Quốc hội phê chuẩn các chức danh này là khó khả thi và không phù hợp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp quy định Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Các Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Hiện tại, Tòa án nhân dân đang được cải cách theo yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo đó, thẩm quyền, tổ chức bộ máy và số lượng Thẩm phán của Tòa án nhân tối cao sẽ được cải cách theo hướng gọn nhẹ, bảo đảm Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, việc trao thẩm quyền Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân là cần thiết, phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp.
Về quyết định việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm (khoản 8 Điều 70): Qua thảo luận, có ý kiến đề nghị giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành: “Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” mà không bổ sung quy định việc lấy phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn đã được Quốc hội Khóa XIII tiến hành trên cơ sở thực hiện yêu cầu về đánh giá cán bộ theo Nghị quyết Đại hội Đảng XI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa XI). Việc lấy phiếu tín nhiệm cũng là một bước thăm dò trước khi quyết định bỏ phiếu tín nhiệm đối với nhữäng người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm tại Kỳ họp thứ 5 vừa qua theo Nghị quyết số 35 của Quốc hội được đông đảo nhân dân đồng tình. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm mới được triển khai lần đầu và còn một số vấn đề cần tiếp tục tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm nên đề nghị chưa quy định vấn đề này trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Ủy ban DTSĐHP tán thành với ý kiến này và thấy rằng, việc không quy định lấy phiếu tín nhiệm trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng không ảnh hưởng đến thẩm quyền Quốc hội quyết định lấy phiếu tín nhiệm đánh giá cán bộ để chuẩn bị cho việc bỏ phiếu tín nhiệm.
Về trưng cầu ý dân (khoản 15 Điều 70): Có ý kiến đề nghị quy định rõ nội dung và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trưng cầu ý dân là một nội dung quan trọng, thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân. Do vậy, quy định về trưng cầu ý dân cần phải được tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, việc quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của mỗi giai đoạn phát triển đất nước. Vì vậy, để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp, không cần thiết quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp mà để luật quy định.
Về thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân (khoản 6 Điều 74): Có ý kiến đề nghị bỏ thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân để tránh trùng lặp với thẩm quyền của Chính phủ. Có ý kiến đề nghị giao thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Vì vậy, để bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp, không cần thiết quy định những nội dung cụ thể và đối tượng của việc trưng cầu ý dân trong Hiến pháp mà để luật quy định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, xuất phát từ nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội là làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật; Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn giải thích Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Vì vậy, việc giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội trách nhiệm giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân là hợp lý. Quy định này không chồng chéo, mâu thuẫn với quy định trách nhiệm của Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội kiểm tra và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Về đề nghị Quốc hội có thẩm quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Hiến pháp hiện hành giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền giám sát Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trên cơ sở giám sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc giải tán Hội đồng nhân dân đó. Quy định này là phù hợp với điều kiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta và vai trò của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội tiếp tục kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1992 về vấn đề này và cho giữ quy định như Dự thảo.
Về việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh (khoản 7 Điều 74): Dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 có 2 phương án. Qua thảo luận, có 3 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất tán thành phương án 1 giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh theo đề nghị của Chính phủ(17).
Loại ý kiến thứ hai tán thành phương án 2 giữ như quy định của Hiến pháp hiện hành, thẩm quyền này thuộc Chính phủ(18).
Loại ý kiến thứ ba đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định thành lập mới, nhập, chia, tách đơn vị hành chính cấp huyện, còn cấp xã giao Chính phủ quyết định hoặc giao thẩm quyền này cho Quốc hội.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính là vấn đề quan trọng, không chỉ liên quan đến việc thay đổi về địa giới hành chính mà còn liên quan đến vấn đề tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính, đặc biệt là phải bảo đảm thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Do đó, vấn đề này cần được Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân quyết định. Do đặc thù Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, khối lượng công việc trong các kỳ họp là khá lớn nên phương án giao thẩm quyền này cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực, hoạt động động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho tiếp thu, chỉnh lý khoản 7 Điều 74 như sau:“Quyết định thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
7. Về Chủ tịch Nước (Chương VI)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chủ tịch Nước (Chương VI) của Dự thảo(19); đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
Về thẩm quyền của Chủ tịch nước (Điều 86): Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ hơn thẩm quyền của Chủ tịch Nước; nghiên cứu để quy định rõ đầy đủ, phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của Chủ tịch Nước về mối quan hệ của Chủ tịch nước đối với hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, theo quy định tại Điều 86 thì Chủ tịch Nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; các nhiệm vụ, quyền hạn thể hiện vị trí, vai trò của Chủ tịch Nước đã được quy định tại các điều 88, 89, 90 và 91 của Dự thảo. Các quy định này nhằm bảo đảm để Chủ tịch Nước thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình, qua đó, phản ánh mối quan hệ của Chủ tịch Nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Về thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng (Điều 88): Có ý kiến đề nghị giữ thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng như hiện hành.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định thẩm quyền phong, thăng quân hàm cấp tướng và tương đương gắn với vai trò thống lĩnh lực lượng vũ trang của Chủ tịch Nước. Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như Dự thảo.
8. Về Chính phủ (Chương VII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Chính phủ (Chương VII) của Dự thảo(20); đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
Về vị trí, tính chất của Chính phủ (Điều 94): Các ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội đều cơ bản tán thành với quy định về vị trí, tính chất của Chính phủ(21). Có ý kiến đề nghị không quy định Chính phủ là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” nhằm tạo điều kiện để Chính phủ chủ động trong quản lý, điều hành nền hành chính quốc gia, mặt khác trong chức năng “hành pháp” và “hành chính” đã thể hiện rõ trách nhiệm của Chính phủ chấp hành Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội là phù hợp với nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta đều quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và trên thực tế, quy định này không cản trở hoạt động của Chính phủ mà ngược lại làm cho Chính phủ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Mặt khác, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã khẳng định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp nên việc quy định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội không ảnh hưởng đến tính chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong quản lý, điều hành. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định này như trong Dự thảo.
- Về nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và mối quan hệ giữa Chính phủ và các thành viên Chính phủ (các điều 95, 96, 98, 99)
Qua thảo luận nhiều ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo Hiến pháp, một số ý kiến đề nghị cần rà soát chỉnh lý lại các điều khoản trong Chương này để làm rõ hơn mối quan hệ giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và nâng cao trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ; sắp xếp lại các nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, nhiệm vụ của Thủ tướng Chính phủ cho phù hợp; làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, sắp xếp lại các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như trong Dự thảo (Điều 96, Điều 98). Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số điều khoản khác trong Chương này để làm rõ hơn trách nhiệm cá nhân của thành viên Chính phủ trước Thủ tướng, cụ thể là đã bổ sung vào Dự thảo quy định Phó thủ tướng chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 95); Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Thủ tướng Chính phủ (Điều 99)…
9. Về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII)
Đa số ý kiến của nhân dân và đại biểu Quốc hội cơ bản tán thành với quy định về Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (Chương VIII) của Dự thảo(22); đồng thời, có ý kiến cụ thể đối với một số vấn đề sau đây:
Về bố cục của Chương: Có ý kiến đề nghị tách Chương Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân thành 2 chương. Có ý kiến đề nghị đưa Viện kiểm sát về Chương X quy định về các cơ quan độc lập.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động của Viện kiểm sát gắn liền chủ yếu với hoạt động của Tòa án. Trong các bản Hiến pháp trước đây của Nhà nước ta quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân luôn đặt trong một chương. Hiến pháp một số nước có quy định về Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát cũng được bố cục trong chương với Tòa án (Nga, Trung Quốc…). Hơn nữa, tuy cùng chương, nhưng quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân được phân biệt rõ ở các điều khác nhau. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như Dự thảo.
Về nguyên tắc tổ chức Tòa án nhân dân (Điều 102): Có ý kiến đề nghị quy định tổ chức Tòa án theo nguyên tắc kết hợp theo thẩm quyền và đơn vị hành chính.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hiện nay chúng ta đang tiến hành cải cách hệ thống Tòa án theo thẩm quyền và không tổ chức Tòa án theo đơn vị hành chính. Do vậy, việc kết hợp tổ chức theo nguyên tắc kết hợp thẩm quyền và đơn vị hành chính là không phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung như trong Dự thảo.
Về nguyên tắc tranh tụng (Điều 103): Có ý kiến đề nghị bỏ quy định về nguyên tắc tranh tụng vì đây là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, Hiến pháp không nên quy định nội dung này; mặt khác, đối với các vụ án đơn giản, xét xử theo thủ tục rút gọn thì việc tranh tụng là rất khó khăn, không cần thiết, gây tốn kém. Có ý kiến đề nghị bổ sung“nguyên tắc thẩm vấn” cùng với nguyên tắc tranh tụng.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tranh tụng trong xét xử là một nguyên tắc đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng, góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm phán quyết của Tòa án được công bằng, bảo vệ công lý. Nghị quyết số 49 xác định thực hiện nguyên tắc tranh tụng là một trong những chủ trương cải cách tư pháp ở nước ta. Hơn nữa, nguyên tắc này cũng thể hiện bản chất dân chủ của hoạt động xét xử của Tòa án và là cơ sở hiến định để đổi mới pháp luật về tố tụng nên cần phải quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ như quy định về nội dung này như trong Dự thảo.
Về đề nghị bổ sung quy định về Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Điều 104): Có ý kiến đề nghị Hiến định địa vị pháp lý của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vào Hiến pháp, vì Hội đồng Thẩm phán là cơ quan xét xử cao nhất và thực hiện giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, còn Hội đồng Thẩm phán là thiết chế giúp Tòa án nhân dân tối cao thực hiện nhiệm vụ này. Mặt khác, để đổi mới Tòa án nhân dân tối cao theo chủ trương cải cách tư pháp thì Hiến pháp không nên quy định cụ thể về Hội đồng này. Do đó, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không quy định về Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong Hiến pháp mà nên để quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
Về đề nghị bổ sung thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao (Điều 104): Có ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền giải thích luật, pháp lệnh, ban hành án lệ cho Tòa án nhân dân tối cao.
Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, việc giải thích luật, pháp lệnh là hoạt động có quan hệ với hoạt động lập pháp. Hiến pháp hiện hành giao thẩm quyền này cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội là hợp lý. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
Về đề nghị bổ sung thẩm quyền ban hành án lệ, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, trên cơ sở các quy định của hệ thống pháp luật nước ta, Tòa án nhân dân tối cao đã và đang thực hiện chức năng tổng kết thực tiễn xét xử và bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật. Việc thực hiện chức năng này đã mang lại hiệu quả thiết thực cho các Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong khi đó, việc ban hành và áp dụng án lệ đối với nước ta là vấn đề mới và đang còn có ý kiến khác nhau nên chưa thể quy định trong Hiến pháp mà cần được tiếp tục nghiên cứu và xem xét khi sửa đổi, bổ sung luật.
Về quy định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 107): Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, kiểm sát việc xử phạt vi phạm hành chính (kiểm sát chung) và thực hiện các nhiệm vụ khác do luật định.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã bỏ chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân để cơ quan này tập trung thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hơn nữa, hiện nay trong bộ máy nhà nước ta đã có nhiều cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và việc xử lý vi phạm hành chính. Nếu quy định chức năng kiểm sát chung cho Viện kiểm sát thì sẽ gây chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp cũng không nên quy định “thực hiện những nhiệm vụ khác” vì Hiến pháp là đạo luật cơ bản, chỉ quy định những vấn đề lớn, cơ bản còn các vấn đề khác để luật định. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định này vào Dự thảo.
Về sự độc lập của Kiểm sát viên (Điều 109): Có ý kiến đề nghị cần quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì Kiểm sát viên phải có sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, hoạt động thực hành quyền công tố và thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên không chỉ tuân theo pháp luật mà còn chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng, mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Nước. Chính vì thế, để thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định nội dung này như trong Dự thảo.
10. Về chính quyền địa phương (Chương IX)
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, Ủy ban DTSĐHP đã trình Quốc hội 2 phương án về chính quyền địa phương. Theo đó, Phương án 1 quy định một cách khái quát để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới căn bản mô hình tổ chức chính quyền địa phương; Phương án 2 giữ các quy định hiện hành của Hiến pháp năm 1992 về các đơn vị hành chính và mô hình chính quyền địa phương của nước ta.
Qua tổng hợp ý kiến, đa số ý kiến nhân dân, đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan tán thành với sự cần thiết phải đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương để thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Tuy nhiên, theo ý kiến của các đại biểu Quốc hội thì cả 2 phương án mà Dự thảo đưa ra đều chưa phù hợp với yêu cầu đó(23). Phương án 1 thì chưa làm rõ được mô hình tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo; còn Phương án 2 thì không đáp ứng được yêu cầu đổi mới tổ chức chính quyền địa phương theo nghị quyết của Đảng và thực tiễn đặt ra.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về chính quyền địa phương trong Hiến pháp là vấn đề rất quan trọng, cần cân nhắc kỹ cả về lý luận và thực tiễn. Hiện tại, chúng ta đang trong quá trình thực hiện thí điểm mà chưa có sự tổng kết, đánh giá việc không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và bước đầu thí điểm xây dựng mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt ở một số địa phương. Vì vậy, sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã tổ chức một số hội nghị, hội thảo, tọa đàm khoa học với sự tham gia của các đại biểu Quốc hội, đại diện lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các chuyên gia, các nhà khoa học để thảo luận, tham vấn ý kiến về chế định chính quyền địa phương trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý chế định chính quyền địa phương theo hướng sau đây:
Về đơn vị hành chính (Điều 110): Dự thảo tiếp tục giữ quy định về các đơn vị hành chính tại Điều 118 của Hiến pháp năm 1992 nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ và ổn định trong cả nước; bổ sung quy định về đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt như Dự thảo.
Về tổ chức chính quyền địa phương (Điều 111): Trên cơ sở bám sát các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là “phân định lại thẩm quyền đối với chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo” và Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI là “nghiên cứu về tổ chức chính quyền địa phương (có phân biệt tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn),… tổ chức chính quyền phù hợp với các địa phương có tính đặc thù, như đặc khu kinh tế, hải đảo”; đồng thời tham khảo kinh nghiệm thực tiễn thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết số 26/2008/QH12 của Quốc hội và kết quả nghiên cứu các đề án về mô hình chính quyền đô thị, chính quyền ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt đang được xây dựng ở một số địa phương,… Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho quy định về tổ chức chính quyền địa phương tại Điều 111 như sau:
“1. Chính quyền địa phương tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.
2. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp, phân quyền do luật định”.
Về phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương (Điều 112): Dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã xác định những nguyên tắc cơ bản về phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương sao cho vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Theo đó, Hiến pháp quy định nguyên tắc để làm cơ sở cho luật định những công việc thuộc thẩm quyền của trung ương, do trung ương đảm nhiệm (như quốc phòng, an ninh, ngoại giao,…), những công việc thuộc thẩm quyền của địa phương và những công việc thuộc thẩm quyền của cả trung ương và địa phương nhưng có cơ chế kiểm soát rõ ràng và bảo đảm một việc chỉ do một cơ quan hoặc cấp chính quyền chịu trách nhiệm chính.
Về tính chất của Hội đồng nhân dân (Điều 113): Qua thảo luận, có 2 loại ý kiến như sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng việc quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương xuất phát từ việc Hội đồng nhân dân là cơ quan do nhân dân ở địa phương bầu ra, đại diện cho nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân; Hội đồng nhân dân quyết định các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, các vấn đề quan trọng của địa phương theo phân cấp và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước tại địa phương. Hơn nữa, thực tiễn thi hành các Hiến pháp trước đây cho thấy quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đã khẳng định đúng vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân. Quy định này không những không làm phân tán quyền lực mà còn góp phần làm cho quyền lực nhà nước ở nước ta được bảo đảm thống nhất;
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân, vì ở cấp địa phương, chính quyền không thể tổ chức theo mối quan hệ ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp như ở cấp trung ương. Mặt khác, quyền lực nhà nước là thống nhất, mỗi cấp chính quyền không thể là một cấp quyền lực khác nhau, điều này dẫn đến phân tán quyền lực. Hơn nữa, chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, nếu chỉ quy định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước sẽ không thấy được vai trò của Ủy ban nhân dân và mối quan hệ biện chứng giữa 2 thiết chế này.
Ủy ban DTSĐHP tán thành loại ý kiến thứ nhất và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về tính chất quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân như quy định của Hiến pháp hiện hành được thể hiện như trong Dự thảo.
Về Ủy ban nhân dân (Điều 114): Dự thảo xác định Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu hoặc do Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Ủy ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.
11. Về Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X)
Về Hội đồng Hiến pháp (Điều 120 Dự thảo trình Quốc hội): Dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 có 2 phương án về cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Theo đó, Phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp; Phương án 2 đề nghị cùng với việc tiếp tục khẳng định và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, Dự thảo đề xuất việc thành lập Hội đồng Hiến pháp với chức năng chuyên trách bảo vệ Hiến pháp.
Qua thảo luận, ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan và các chuyên gia cho rằng, việc bảo vệ Hiến pháp là một yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, phù hợp với nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được xác định trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, XI. Trong quá trình xây dựng và lấy ý kiến về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, nhiều ý kiến nhân dân, của một số cơ quan, tổ chức hữu quan và ý kiến của nhiều chuyên gia tán thành về quy định Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo nhưng cần cân nhắc một số nội dung cụ thể về thẩm quyền, về tổ chức và hoạt động của cơ quan này, nhất là mối quan hệ giữa Hội đồng Hiến pháp với các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Tại Kỳ họp thứ 5, kết quả xin ý kiến đại biểu Quốc hội bằng phiếu thì bên cạnh các ý kiến tán thành với phương án 2 thành lập Hội đồng Hiến pháp(24), đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với phương án 1 là tiếp tục hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành mà không thành lập Hội đồng Hiến pháp(25).
Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến của nhân dân, ý kiến của đại biểu Quốc hội và các cơ quan, tổ chức hữu quan, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc thành lập Hội đồng Hiến pháp là vấn đề mới, lại đang còn có nhiều ý kiến khác nhau, nên trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, trong đó, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, nhất là Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp là phù hợp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không bổ sung quy định Hội đồng Hiến pháp vào Dự thảo.
Về Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 117): Qua thảo luận, có ý kiến tán thành việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia như Dự thảo. Ý kiến khác không nhất trí với quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia vì cơ quan này hoạt động không thường xuyên, đề nghị quy định trong Luật bầu cử.
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, việc bổ sung chế định Hội đồng bầu cử quốc gia là nhằm thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, thể chế hóa một trong những chủ trương của Đảng là “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử…”; “nghiên cứu, bổ sung một số thiết chế độc lập như cơ quan Kiểm toán Nhà nước, cơ quan bầu cử quốc gia”.
Với tinh thần đó, Ủy ban DTSĐHP đã chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu, hoàn thiện quy định về thiết chế này như Dự thảo và đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia trong Dự thảo. Các quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Hội đồng bầu cử quốc gia và số lượng thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia sẽ do luật định.
Về Kiểm toán Nhà nước (Điều 118): Qua thảo luận, các ý kiến cơ bản tán thành với quy định của Dự thảo. Có ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước; nhiệm kỳ của Tổng Kiểm toán, chức năng nhiệm vụ của Kiểm toán viên…
Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo là phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước hiện hành, đồng thời cũng phù hợp với tính chất hoạt động của Kiểm toán Nhà nước theo thông lệ, luật pháp quốc tế và nhiều nước trên thế giới. Hiến pháp cũng chỉ nên ghi nhận địa vị pháp lý, nguyên tắc hoạt động của cơ quan Kiểm toán trong Hiến pháp để làm căn cứ cho việc quy định các vấn đề cụ thể trong luật. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về Kiểm toán Nhà nước như Dự thảo.
12. Về hiệu lực của Hiến pháp và việc ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp
Nhiều ý kiến đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc thi hành Hiến pháp để quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp và các điều khoản chuyển tiếp khi Hiến pháp có hiệu lực. Ý kiến khác đề nghị quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp ngay trong Hiến pháp.
Qua nghiên cứu, Ủy ban DTSĐHP thấy rằng, các bản Hiến pháp trước đây của nước ta (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992) đều không quy định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp trong bản Hiến pháp; cùng với việc thông qua Hiến pháp, Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp, trong đó xác định thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị không quy định thời điểm có hiệu lực trong Hiến pháp mà Quốc hội ban hành Nghị quyết thi hành Hiến pháp với nội dung cụ thể như: hiệu lực Hiến pháp, một số vấn đề chuyển tiếp và việc tổ chức thi hành Hiến pháp (xin xem Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự thảo Nghị quyết quy định một số điểm thi hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2013)).
Ngoài các vấn đề đã báo cáo, giải trình trên đây, căn cứ vào ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban DTSĐHP đã rà soát, tiếp thu, chỉnh lý cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến các quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
*
* *
Trên đây là Báo cáo những nội dung cơ bản giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến của nhân dân và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp xin kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
TM. ỦY BAN DỰ THẢO
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992
CHỦ TỊCH
NGUYỄN SINH HÙNG
_________________
1. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 262/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Lời nói đầu của Dự thảo trình Quốc hội.
2. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 316/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 1 của Dự thảo trình Quốc hội.
3. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 313/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 2 của Dự thảo trình Quốc hội.
4. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 328/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 4 của Dự thảo trình Quốc hội.
5. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 175/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
6. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 153/357 đại biểu Quốc hội tán thành với phương án này.
7. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 219/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương II của Dự thảo trình Quốc hội.
8. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 245/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương III của Dự thảo trình Quốc hội.
9. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 88/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
10. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 145/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
11. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 158/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 3 Điều 54 của Dự thảo trình Quốc hội.
12. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 242/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Điều 58 của Dự thảo trình Quốc hội.
13. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 259/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương IV của Dự thảo trình Quốc hội.
14. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 241/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương V của Dự thảo trình Quốc hội.
15. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 196/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
16. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 168/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 4 Điều 75 của Dự thảo trình Quốc hội.
17. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 213/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
18. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 khoản 7 Điều 79 của Dự thảo trình Quốc hội.
19. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 282/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VI của Dự thảo trình Quốc hội.
20. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 277/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
21. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 319/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VII của Dự thảo trình Quốc hội.
22. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 278/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Chương VIII của Dự thảo trình Quốc hội.
23. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 155/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1; 146/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 và 34/357 đại biểu Quốc hội không tán thành với cả 2 phương án.
24. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 95/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 2 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.
25. Theo kết quả phiếu xin ý kiến của đại biểu Quốc hội về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp tại Kỳ họp thứ 5 có 216/357 đại biểu Quốc hội tán thành với Phương án 1 Điều 120 của Dự thảo trình Quốc hội.

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"