Người dịch: Huỳnh Phan
Tác giả: Dennis C McCornac - Đại học Loyola Maryland
Cách tiếp cận chính sách đối ngoại mới của Việt Nam, mà một số nhà
phân tích đã gán cho là ‘thêm bạn, bớt thù’, phản ánh vị trí bấp bênh
như một con chim trên dây giăng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Trong vài tháng qua, các quan chức Việt Nam đã tổ chức một số cuộc
họp cấp cao với các nhà lãnh đạo của cả hai nước này. Vào cuối tháng 7,
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến Washington để thảo luận về quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP) với Tổng thống Barack Obama, làm nổi rõ mối quan hệ đã được cải
thiện giữa hai cựu thù theo chiến lược ngày càng chú trọng tới châu Á
của Mỹ. Hơn một tháng sau đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng
Trung Quốc Lý Khắc Cường và nhắc lại chính sách lâu dài và nhất quán về
củng cố và tăng cường quan hệ láng giềng và hợp tác với Trung Quốc của
Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Cơn lốc ngoại giao này là bằng chứng cho thấy Việt Nam mong muốn
duy trì mối quan hệ kinh tế và quân sự ổn định và bình thường với cả
Trung Quốc và Mỹ, một cái gì đó đặc biệt quan trọng trong điều kiện
trước đây Việt Nam đã từng có xung đột với mỗi nước này trong lịch sử,
và cũng cho thấy tầm quan trọng của hai nước này đối với mục tiêu của
Việt Nam muốn hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam lo lắng về sự
trỗi dậy của Bắc Kinh, và chính sách đối ngoại mới của họ là hướng tới
việc chống lại ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc
trong khu vực. Nhưng về mặt ý thức hệ, Việt Nam thấy thoải mái với
Trung Quốc hơn với Mỹ. Còn về mặt kinh tế, Trung Quốc là một thị trường
lớn, một nguồn giúp đỡ tài chính và một mô hình phát triển. Điều này đã
đặt Việt Nam ở một vị trí không dễ chịu. Một quan chức chính phủ Việt
Nam đã mô tả Việt Nam như đang đánh đu trên một sợi dây, do Trung Quốc
giữ một đầu và Mỹ giữ đầu kia.
Một vấn đề về chính sách đối ngoại tiếp tục gây tai họa cho mối
quan hệ Việt – Trung liên quan đến việc cả hai nước đều tuyên bố chủ
quyền đối với hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa. Vấn đề quan trọng
nhất đang đe dọa là nước nào có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên
thiên nhiên trong và dưới các vùng biển xung quanh hai quần đảo này. Mặc
dù trữ lượng đã qua kiểm chứng chưa xác định rõ, dự báo lạc quan nhất
từ Trung Quốc cho thấy nguồn tài nguyên dầu tiềm năng của hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa và có thể lên đến 213 tỉ thùng dầu và khu vực này
cũng rất giàu khí đốt tự nhiên. Cả hai quốc gia đã dự tính tới khả năng
thực hiện hành động quân sự. Nhưng bây giờ, họ đã cam kết đàm phán một
cách hòa bình tìm giải pháp bất chấp sức ép của những thành phần dân
tộcchủ nghĩa ở cả hai bên vẫn kiên định về các vấn đề chủ quyền.
Căng thẳng kinh tế giữa hai nước cũng có thể phá hỏng mối quan hệ.
Một mặt, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, đặc
biệt là do nhu cầu vô độ của Trung Quốc về hàng hóa và các nguồn tài
nguyên. Duy trì tăng trưởng kinh tế cho một quốc gia gần 1,4 tỉ công dân
đòi hỏi một lượng tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, phần lớn trong số đó
là phải nhập khẩu. Và vì Trung Quốc lùng sục khắp thế giới xây dựng các
mối quan hệ kinh tế để bảo đảm nguồn cung cấp liên tục các mặt hàng như
than đá, dầu thô, quặng sắt, nên việc họ tìm chỗ giúp đỡ ngay người
láng giền gần gũi cũng là việc đương nhiên.
Mặt khác, các cách biệt giữa hai nước, đặc biệt là về tầm cỡ kinh
tế và quyền lực chính trị, có nghĩa là việc mở cửa thị trường không phải
là một tình thế win- win đúng nghĩa. Lưu lượng hàng hóa Trung Quốc, cả
buôn lậu qua biên giới lẫn nhập khẩu hợp pháp vào thị trường Việt Nam,
đã tác động tiêu cực đến sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng của
Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Mối quan ngại đặc biệt ở Việt Nam
là phần lớn các hàng hoá này đều có chất lượng thấp, nguồn gốc không rõ
ràng và có thể chứa các chất độc và các chất có hại khác cho sức khỏe
con người. Một số sản phẩm có thể làm ra được tại Việt Nam, nhưng vẫn
còn nhập khẩu vì có lợi về giá thành. Sự phụ thuộc vào nhập khẩu Trung
Quốc này đã đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam tới mức báo động và việc
Việt Nam nương tựa quá nhiều vào thương mại với Trung Quốc dự kiến là
chỉ có tăng lên theo thời gian.
Tuy nhiên, ngoài những va chạm về kinh tế và tranh chấp lãnh thổ,
mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam gần đây đã được cải thiện, và
tính chất hòa giải các cuộc họp mới đây giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã mở ra
một giai đoạn tương đối yên tĩnh. Cả hai nước đều có vẻ mong muốn tiếp
tục thúc đẩy quan hệ song phương tốt hơn, và việc cải thiện trong quan
hệ Trung- Việt có vẻ không có khả năng gây tổn hại mối quan hệ của Việt
Nam với Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, bất cứ khi nào Trung Quốc hoặc Mỹ rung sợi dây mạnh bạo
hơn, Việt Nam cảm thấy mình đang ở một vị trí bấp bênh hơn, không biết
đầu dây nào là điểm tựa an toàn nhất. Nếu chính phủ Việt Nam muốn tiếp
tục đứng thẳng thì phải tránh liên kết quá chặt với nước này mà buông
lơi mối quan hệ với nước kia.
Việt Nam hiện đang ở một thời điểm tương đối độc đáo trong lịch sử
của mình. Đất nước thống nhất, và có đủ tiền đề kinh tế và chính trị để
giữ một vai trò quan trọng trong khu vực. Nhưng sự trỗi dậy của tình cảm
dân tộc dù ở Trung Quốc hay ở Việt Nam đều có thể báo trước nhiều thời
kỳ rắc rối hơn trước mặt. Và như tuyên bố của một nhà ngoại giao Việt
Nam, ‘Không ai nói ra một cách công khai, nhưng cái lôi kéo mỗi cuộc họp
ở Đông Nam Á bây giờ là nỗi sợ hãi về việc khu vực sẽ như thế nào với
sự khống chế của Trung Quốc’.
Dennis C McCornac là Giám đốc về các vấn đề toàn cầu tại Đại học
Loyola Maryland. Ông chuyên về kinh tế và có hơn 20 năm kinh nghiệm
sống ở Nhật Bản và Việt Nam.
Nguồn: East Asian Forum