Jonathan London
Theo blog Xin Lỗi Ông...
Trước những diễn biến mới nhất ở Việt Nam – cụ thể là kết luận bất
mãn (tuy phần lớn nào có thể dự đoán được) của công cuộc sửa đổi hiến
pháp, chuỗi các vụ bắt blogger (mà giờ đã thành xu thế ổn định), và mối
lo ngại ngày một gia tăng về tình hình của nhà bất đồng chính kiến Cù
Huy Hà Vũ – ta rất dễ kết luận rằng chẳng có gì thay đổi trong chính trị
Việt Nam.
Một tia sáng đang nhanh chóng tàn lụi
Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm ở Quốc hội dầu tuần trước là một cú chớp loé
sáng rồi vụt tắt trong quãng thời gian mấy tuần đáng ngán ngẩm. Những lá
phiếu tín nhiệm, theo quan điểm của tôi, đã và vẫn là một diễn biến
quan trọng trong quá trình phát triển của Quốc hội – một diễn đàn mà
ngay từ những ngày còn non trẻ của nó, đã bị đặt xuống một vị trí hoàn
toàn phụ thuộc vào chính trị nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam và do đó
đã và vẫn thể hiện mọi hạn chế của một chế độ độc đảng.
Sự quan trọng của những lá phiếu là chúng đưa ra một yếu tố có thể
gọi là “sự không xác định trước được” (indeterminancy) trong nền chính
trị của đất nước, một yếu tố vốn gần như đã biến mất ở một đất nước nơi
hệ thống cai trị theo thứ bậc và đầy bí mật của các chi bộ đảng đã thâm
nhập vào gần như tất cả các tổ chức xã hội. Nói cách khác, nền chính trị
của Quốc hội không còn hoàn toàn hay chỉ là thứ chính trị được sắp đặt
từ trước mà chúng ta đều đã quá quen thuộc. (Dù vậy, Quốc hội vẫn là một
cơ quan được cấu thành, chỉ định, hành động, lửa chọn, và quản lý do
một chế độ độc đảng.)
Các vụ bắt bớ blogger
Khổ thay, trong vài ngày diễn ra cuộc bỏ phiếu của Quốc hội cộng với
những ì xèo mà nó gây ra, cảm giác về cơ hội (về cái có thể diễn ra) đã
nhường chỗ cho cái điều quen thuộc đến phát chán nọ. Như bây giờ người
ta đã rõ, Nhà nước, có lẽ là theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, đã tăng
cường gấp đôi nỗ lực bịt miệng và dập tắt sự phát triển của ‘phong trào’
cải cách chính trị càng ngày càng sôi động của Việt Nam.
Chúng ta hãy quay trở lại để nói nhanh về các vụ bắt bớ. Trong vòng
ba tuần, ba người đã bị buộc tội theo một công cụ mới được các cơ quan
trấn áp ở Việt Nam ưa chuộng: Điều 258 Bộ luật Hình sự. Cái biện pháp
đậm đà màu sắc Stalin này quy định rằng, “Người nào lợi dụng các quyền
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội
họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm”.
Tôi hỏi, tại sao nhiều tiến bộ, bộ máy nhà nước của Việt Nam, một
quốc gia với tiềm năng to lớn như thế, lại vẫn có những bốc đồng của một
nhà nước công an trị? Làm sao những định chế áp bức như thế có thể đóng
góp được gì cho tương lai của đất nước?
Các vụ bắt bớ, tất nhiên, nhằm bịt miệng không chỉ một vài cá nhân,
mà còn nhằm đe đoạ tất cả những người có và đang phát triển đầu óc đổi
mới. Còn quá sớm để biết liệu chúng có hiệu quả hay không. Nhưng những
dấu hiệu đầu tiên cho thấy rằng việc bắt giữ, không phải là dội nước
lạnh lên những ý kiến bất đồng về chính trị, mà đã làm sâu sắc thêm cảm
giác quyết tâm ở những người bên trong, bên ngoài, và trên biên giới bộ
máy ở một quốc gia đang tìm kiếm cải cách chính trị mang tính đột phá.
Cùng lúc, hình ảnh và uy tín trên trường quốc tế của Việt Nam một lần
nữa bị kéo xuống bùn.
Ảo tưởng Internet?
Các vụ bắt giữ cũng kéo theo một cơ hội để đánh giá tỉnh táo về các
khả năng và giới hạn của du luận chính trị trên nền Internet ở Việt Nam.
Một bài báo gần đây trên tờ Financial Times về hoạt động trên hoạt động chính trên mạng ở Đông Nam Á
(tác giả Daving Pilling, với sự hợp tác của Nguyễn Phương Linh) cho
thấy sức mạnh của Internet trong việc hình thành và phát triển những
cuộc tranh luận chính trị mở.
Nhưng bài báo cũng chỉ ra những giới hạn của hoạt động trên mạng
trong xã hội toàn trị, dẫn chiếu đến cuốn sách hấp dẫn nhưng không phải
là không gây tranh cãi của Evgeny Morozov, “Ảo tưởng net” (The Net
Delusion – xem bài điểm sách rất đáng suy ngẫm ở đây) – cuốn sách phản bác ý kiến cho rằng Internet là một công cụ hiệu quả của hoạt động đấu tranh cho tự do.
Lùi lại để quan sát những gì đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay, chúng
ta cũng có thể nhất trí rằng, mặc dù Internet ở Việt Nam đã giúp ích cho
công cuộc hình thành và phát triển những thảo luận chính trị mang tư
duy cải cách sống động, nhưng cho đến giờ, thảo luận chính trị công khai
ở Việt Nam vẫn tồn tại chủ yếu (dù không hoàn toàn) trên cyberspace.
Mặc dù các cuộc thảo luận thường thú vị, nhưng, có lẽ cũng có thể
thấy trước được, là chúng thường chuyển hoá thành một loại “căn phòng
trút giận”, trong đó, người ta mất rất nhiều sức vào việc phê phán các
khuynh hướng chính trị lạc hậu của Việt Nam mà bỏ rất ít công sức (có lẽ
do sợ những mối nguy hiểm cố hữu) cho những giải pháp chính trị có tính
chủ động.
P.O.S.
Nghiên cứu khoa học xã hội về các phong trào xã hội cho thấy rằng,
tuy những lời công khai kêu gọi cải cách có thể là một động lực mạnh mẽ,
nhưng những kêu gọi như thế chỉ được hiện thực hoá, trở thành các phong
trào lớn mạnh và hiệu quả khi chúng tập trung và được hỗ trợ bởi các
hành động có tổ chức, có kỷ luật, xoay quanh những mục tiêu chính trị cụ
thể.
Điều này, đến lượt nó, lại đòi hỏi phải có những hình thức tổ chức để
có thể huy động và triển khai “các nguồn lực khác nhau cho phong trào
xã hội”, suốt một thời gian liên tục trong một môi trường chính trị thay
đổi liên tục. Ngược lại, sự thể hiện một cách hỗn loạn trên mạng, mặc
dù có thể có tính xả stress (“nhuận tràng”), tự nó không chắc có thể
mang lại kết quả hữu hình vào.
Công cuộc cải cách ở Việt Nam quả thật có thể được ví với một “căn
lều lớn”. Nhưng cho đến nay, các hoạt động bên trong căn lều đó vẫn hỗn
loạn một cách không thể chối cãi. Điều này đưa chúng ta đến với khái
niệm “cấu trúc của thời cơ chính trị” (political opportunity structure
hay P.O.S.).
Sự hình thành các phong trào xã hội không diễn ra trong chân không,
mà là trong môi trường xã hội năng động, được tạo hứng khởi từ một loạt
những cơ hội và rủi ro tiến triển không ngừng. Thành công hay thất bại
của các phong trào cải cách trên toàn cầu thường phụ thuộc vào việc các
phong trào đó vận hành như thế nào trước những rủi ro, đe doạ đó.
Quá trình cải cách hiến pháp là một ví dụ tốt để minh hoạ khái niệm
“cấu trúc thời cơ chính trị”. Việc thảo luận về sửa đổi hiến pháp không
tình cờ tiến triển. Thay vì thế, nó do Nhà nước khởi xướng một cách vụng
về, và sau đó được nắm bắt bởi một nhóm người có tâm, những người cảm
thấy có một cơ hội chính trị, và rồi họ tận dụng nguồn lực và tài năng
của họ một cách có tổ chức, khôn ngoan, chiến lược.
Thứ mà ban đầu là một quá trình được giới bảo thủ trong nhà nước đạo
diễn đã phát triển (nhờ những hành động can đảm của các nhà ủng hộ cải
cách) thành một cuộc thảo luận sinh động trên tầm quốc gia, điều thật sự
chưa từng có tiền lệ trong lịch sử Việt Nam.
Nhớ lại, những người cổ vũ cải cách hiến pháp trong ví dụ này đã tập
trung vào vấn đề cụ thể là liệu có nên, và phải làm thế nào, để sửa đổi
hiến pháp một cách căn bản – việc này có liên quan đến vấn đề còn to lớn
hơn, là cải cách thể chế. Phải công nhận là dù phong trào sửa đổi hiến
pháp (và tôi nghĩ nó là một phong trào, theo cách nào đấy) vẫn chưa đem
đến những thay đổi đáng kể trong thể chế chính thức của Việt Nam, nó có
mang lại một số thay đổi khá rõ nét trong giọng điệu và đặc điểm của
các cuộc thảo luận chính trị ở Việt Nam. Và điều đó, trong quan điểm
của tôi, là một kết quả rất đáng kể.
Phong trào hiện tại xoay quanh tình hình ông Cù Huy Hà Vũ có lẽ là
một thời cơ chính trị khác. Một lần nữa, đây là một thời cơ được tạo bởi
những hành động vụng về của những yêu tố áp chế mà đáng tiếc vẫn sinh
tồn trong nhà nước. Nhưng giờ đây phong trào đó có trong tay một nhà bất
đồng chính kiến hùng biện và có quyết tâm cao; một nhân vật thu hút sự
ủng hộ rộng lớn cả trong và ngoài Việt Nam.
Nhìn lại toàn cảnh tình hình
Trước tình hình bắt bớ và giam giữ liên tục không ngừng nghỉ, người
ta không nên chỉ nhìn cây mà bỏ qua nhìn rừng. Nhìn rộng ra là một việc
làm có ích.
Có thể phát biểu một cách an toàn rằng 12 tháng qua, tình hình khá
khác so với bất kỳ thời kỳ nào có thể đem ra so sánh trong lịch sử Việt
Nam. Có thể nhìn thấy đặc điểm nổi bật của giai đoạn này trong bộ máy
nhà nước, cùng với việc Ban Chấp hành Trung ương khiển trách Bộ Chính
trị, cái ghế lung lay của ông Nguyễn Tấn Dũng, và gần đây nhất là thất
bại có vẻ của phe bảo thủ trong việc nhét Nguyễn Bá Thanh vào Bộ Chính
trị. Ngân và Nhân vẫn còn là hai nhân vật bí ẩn và hãy còn quá sớm để
nhận rõ liệu sự cởi mở mà người ta gán cho họ là diễn hay là thật.
Chúng ta nhận thấy rất rõ, rằng tranh giành giữa các phe phái đã luôn
hiện diện trong Đảng. Có lẽ là đáng khích lệ khi mà cuộc chiến phe phái
đã mang một bộ mặt công khai hơn. Quả thật, đối với tôi, tranh giành
phe phái trong Đảng càng trở thành chuyện “bình thường” hơn và công khai
hơn thì Việt Nam càng đi gần hơn đến đa nguyên về chính trị – chế độ đa
nguyên có thể giúp cho sự chuyển đổi để đi đến một tương lai dân chủ
hơn. Mặc dù nín thở theo dõi là dở hơi, nhưng các diễn biến chính trị
trong nội bộ Đảng là rất đáng kể và những người có tư duy cải cách cần
phải được theo dõi cẩn thận để có phản ứng phù hợp.
Trong khi đó, bên ngoài nhà nước đảng trị, và trên biên giới của nó,
Việt Nam rõ ràng là khác hẳn so với cách đây một năm. Tuy rằng người ta
vẫn có thể bị tống vào tù vì đã phát tán biểu tượng chính trị “sai
lệch”, hay vì nói những điều không đẹp về Bắc Kinh, hay vì kêu gọi lật
đổ chính quyền, nhưng hàng ngũ những người Việt Nam có tư duy cải cách
ngày nay được thoải mái tuyên bố họ muốn cải cách chính trị ngày một
đông đảo thêm, và không chỉ chia sẻ trên mạng. Chẳng hạn, nhiều người
Việt Nam thoải mái nói rằng họ muốn xoá bỏ Điều 4 Hiến pháp. Những người
mà tôi đang nghĩ đến không có mực tiêu giải tán Đảng và chắc chắcn họ
không phải là “thế lực thù địch”. Họ là những người Việt yêu nước, mong
muốn Đảng Cộng sản Việt Nam chấm dứt độc quyền lãnh đạo và cạnh tranh
cùng các đảng phái yêu nước khác để cùng thúc đẩy lợi ích quốc gia trong
một trật tự xã hội hoà bình, an ninh và dân chủ.
Một số câu hỏi thực tiễn
Trong ngắn hạn, có những câu hỏi quan trọng cần được đặt ra. Chẳng
hạn, trước cải cách, các đảng nên vận hành như thế nào trong tình hình
bị đàn áp tàn nhẫn với hàng loạt vụ bắt bớ theo Điều 258? Đó là một câu
hỏi hay. Có lẽ cần kiên nhẫn, thận trọng, có óc tưởng tượng, có khả năng
tháo vát, và tránh rơi vào những cái bẫy khác nhau mà kẻ thù của cải
cách giăng ra.
Mặc dù phải thừa nhận điều này khó thực hiện, nhưng cần phải nhìn
vượt ra bên ngoài thể chế và các cơ quan chuyên trấn áp. Công an – những
người hiện diện trong các vụ bắt giữ và đe doạ – là lực lượng cuối cùng
cần được phân tích, họ chỉ là những người thực hiện các mệnh lệnh cụ
thể của thể chế. Họ là con người, đang sống, đang hít thở không khí, có
gia đình và có hy vọng. Tương lai nghề nghiệp của họ phụ thuộc vào việc
họ tuân thủ triệt để đến mức các mệnh lệnh do những chính sách sai lầm
đưa ra.
Cũng có thể nói y như thế về lực lượng bình luận viên trên Internet,
do nhà nước thuê, những người liên tục cố gắng định hướng dư luận bằng
đủ thứ lý lẽ nguỵ biện. Trên trang blog tiếng Việt của tôi chẳng hạn,
các quan sát của tôi về biểu tình ở Việt Nam bị một số “người đọc” hiểu
sai thành lập luận ủng hộ biểu tình. Tôi nhấn mạnh rằng biểu tình trong
chính thể dân chủ là một cơ chế để gây áp lực lên các chính trị gia
thiếu trách nhiệm giải trình. Tôi không ủng hộ bản thân hành động biểu
tình, và tôi phản đối biểu tình bạo lực dưới mọi hình thức. Một người
đọc khác bảo tôi nên tập trung vào các nạn nhân của chất độc màu da cam
và dioxin. Tôi tuyệt đối là nên làm thế. Nhưng vấn đề này, bản thân nó,
chẳng liên quan gì đến cải cách chính trị. Và trong vài ngày qua, người
dân Việt Nam đã chứng kiến rất nhiều bài báo lố bịch, chúng chỉ làm tăng
thêm chứ không làm giảm những lo ngại về tình hình Cù Huy Hà Vũ.
Hành động bắt bớ và đe doạ cũng như là thứ “chính trị một chiều”
khiến người ta chán nản và không dễ xử lý. Tuy nhiên, những người cổ suý
cho cải cách thực sự sẽ bị thua nếu họ dành phần lớn công sức vào phản
ứng với những thứ đó và tương đối ít công sức vào các giải pháp chính
trị chủ động.
Tính chủ động (chứ không phải “phản ứng” – càng không phải phản động)
có thể giúp người ta xử lý các khía cạnh tâm lý mệt mỏi của việc sống
trong một nhà nước công an trị, trong khi cũng có thể thúc đẩy một cách
tiếp cận mang tính tích cực hơn.
Xưa, nay, và tương lai
Có ví dụ nào trong lịch sử mà Việt Nam nên nhìn vào không? Trong cuộc
đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ, những nhà hoạt động đã từ chối,
không để bị nhụt chí trước hành động trấn áp phi lý, và họ hướng năng
lượng của họ không phải vào cảnh sát hay những kẻ áp bức, mà vào việc
loại bỏ các chính sách trấn áp. Trong phong trào Quyền Dân sự ở Hoa Kỳ,
các nhà hoạt động, từ những xuất thân khác nhau, đã nhấn mạnh nhu cầu
phải duy trì kỷ luật và tập trung vào mục tiêu cao nhất. Tinh thần này
được tóm gọn trong mấy từ (hãy để mắt đến việc) “giám sát giải thưởng”
[“(Keep your) Eyes on the prize”]. Ở đây cần nhấn mạnh rằng thành công
của phong trào không phải là ở chỗ hát được nhiều bài hát, mà là ở vấn
đề tổ chức.
Ở Hàn Quốc, công nhân và sinh viên đấu tranh cả thập kỷ để có cải
cách. Và ngày nay, mặc dù nền chính trị của Hàn Quốc vẫn chưa hoàn hảo,
nhưng họ đã đi trước Việt Nam nhiều năm ánh sáng – thật mỉa mai khi mà
các lãnh đạo của Việt Nam đều ưa thích “mô hình Hàn Quốc”. (Hàn quốc
nào là mô hinh? Hàn Quốc tiên tiến của hôm nay? Hoặc Hàn Quốc công an
trị của Park Chung Hee? Ai mà cho rằng Việt Nam có thể tái tạo kinh
nhiệm của Hàn Quốc thời Park qua việc đán áp và bỏ vốn vào những công ty
lớn thật là đang sống dưới một ảo tưởng nguy hiểm. Bẹnh đó tôi gọi là
“Chaebol dreaming.”)
Về Việt Nam, cuộc đấu tranh của chính Việt Nam để giành độc lập, mặc
dù – thật đáng tiếc – đầy bạo lực và huỷ diệt, đã có nhiều lúc “bên
thắng cuộc” được gợi hứng bởi niềm tin tưởng sâu sắc vào chiến thắng
cuối cùng. Theo rất nhiều người ở trong và ngoài bộ máy nhà nước Việt
Nam, và ở mọi bên, chiến thắng cuối cùng vẫn chưa đến.
Nếu Việt Nam đạt được những cải cách họ cần thực hiện để gia nhập
hàng ngũ các xã hội tiên tiến và cởi mở của thế giới, thì những gì cần
có là tổ chức cẩn thận, chính xác, và quyết tâm lâu dài. Lịch sử không
thể vội được. Nhưng thay đổi sẽ không đến nếu không có sự can đảm, thận
trọng, và trí tưởng tượng.
Những người cổ vũ cho cải cách ở Việt Nam hình dung, và một xã hội
trong đó các quyền tự do thể hiện trong hiến pháp được đảm bảo thật sự.
Trong xã hội đó, mọi thủ đoạn kiểu Stalin đều chỉ còn là quá khứ. Một
nước Việt Nam mạnh, an ninh, và dân chủ, được cai trị bởi pháp luật và
một hệ thống tư pháp thực sự độc lập. Nếu đảng viên của Đảng Cộng Sản
muốn củng cố tính chính danh của họ, họ phải tiêu diệt hết các thủ đoạn
của nhà nước công an trị và bắt đầu xúc tiến những cuộc cải cách mang
tính đột phá mà rõ ràng Việt Nam đang cần. Họ càng sớm làm việc đó thì
Việt Nam càng sớm tìm ra con đường thực sự hứa hẹn để đi đến tương lai.
Nhưng họ sẽ chỉ làm như vậy nếu những người ủng hộ cải cách để mắt theo
dõi giải thưởng.
JL