Phạm Chí Dũng trả lời phỏng vấn của Mặc Lâm, RFA
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (giữa) tại lễ khai mạc Diễn đàn Kinh tế Thế giới Đông Nam Á
tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Myanmar ở Naypyidaw hôm 06/6/2013
Việt
Nam luôn bảo lưu quan điểm chính trị và kinh tế không cần thiết phải
song hành trong khi khái niệm này được thế giới chứng minh ngược lại.
Điều gì đang xảy ra trong nền kinh tế và chính trị không thể đồng hành
ấy? Mặc Lâm phỏng vấn Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng để tìm câu trả lời.
Nhiều tướng lĩnh lên tiếng
TS. Phạm Chí Dũng: Câu
hỏi của anh không chỉ có tính triết học mà còn cả về “thần học”. Vật
chất và ý thức thượng tầng luôn đi đôi và dính liền với nhau. Nhưng cái
mà tôi muốn đề cập là hình như đang có một thế lực “thần quyền” nào đó ở
Việt Nam, đang dụng tâm lấy ý thức và trên hết là ý thức hệ để làm mờ
nhạt những xung đột xã hội có nguy cơ sắp bùng nổ.
Hãy
tự hỏi, sau 38 năm từ ngày chấm dứt chiến tranh, dù rằng GDP và đời
sống người dân luôn được báo cáo là “năm sau tăng cao hơn năm trước”,
nhưng nạn tham nhũng và mức sống dân tình vẫn tỷ lệ nghịch với nhau như
thể theo cấp số nhân.
Chưa
bao giờ nhóm lợi ích và chủ nghĩa thân hữu lại bộc lộ nanh vuốt của
chúng một cách lộ liễu, bài bản và thủ đoạn như hiện nay – như một hình
ảnh mà người phương Tây đã đúc kết là “chủ nghĩa tư bản dã man”. Cũng
chưa bao giờ hố phân cách giữa người giàu và người nghèo trong xã hội
lại lớn đến như thế này.
Thế
thì cứ mãi “Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh” để làm gì? Điều gì sẽ có ích
từ lời dạy của tiền nhân nếu không được nhập tâm tới nơi tới chốn đối
với lớp hậu bối để trở thành “công bộc” xứng đáng?
Xung
đột giai cấp cũng từ đó mà khơi nguồn. Xung đột tư tưởng và những gì
thuộc về thượng tầng cũng bắt nguồn từ xung đột giai cấp. Hậu quả cho
đến nay của kinh tế và nền chính trị mà anh hỏi cũng là một cặp phạm trù
mang tính hệ lụy tất yếu.
Chúng
ta hãy quay trở lại với biểu đồ “suy thoái tư tưởng” của nền kinh tế từ
những năm 2005-2006 đến nay. Cách đây 7-8 năm, tình hình kinh tế vẫn
còn trong sức chịu đựng của người dân, tham nhũng lộ diện nhưng chưa
hoành hành lộ thiên như bây giờ. Còn hiện nay, dường như mọi việc đang
mất kiểm soát, không ai đứng ra trị tham nhũng, không ai dám chịu trách
nhiệm về một nền kinh tế lụn bại và bị lũng đoạn từ trong ra ngoài.
Thế
thì chính trị đi xuống cũng là tất yếu thôi. Hệ lụy ấy - một người dân
bình thường cũng có thể nhìn thấy còn rõ hơn đêm giữa ban ngày. Ở vỉa
hè, người dân công khai nói về những mâu thuẫn trong nội bộ đảng, không
chỉ về một đồng chí X nào đó mà còn cả về các nhóm và phe phái đang đấu
tranh với nhau, nhưng không phải là cuộc tranh đấu để có hạnh phúc giai
cấp như Mác nói, mà là vì động cơ cá nhân.
Mặc Lâm: Có
phải xuất phát từ những điều như ông vừa nói làm cho sự lên tiếng ngày
càng nhiều của những tướng lãnh đã về hưu hay các nhà cách mạng lão
thành trong thời gian gần đây?
TS. Phạm Chí Dũng: Nhiều
tướng lĩnh về hưu và cách mạng lão thành đã phải thốt lên là chưa bao
giờ Đảng bị phân hóa như hiện nay, chưa bao giờ mầm mống xung đột trong
Đảng xuất hiện dày đặc đến thế trong bối cảnh chân đứng chính trị của
Đảng đang trở nên mong manh hơn lúc nào hết.
Những
vị tướng lĩnh lão thành như Nguyễn Quốc Thước và Nguyễn Trọng Vĩnh đều
là nhân chứng sống động cho rạng bình minh đã lướt qua và ráng hoàng hôn
đang ập đến.
Đó
là cái gì, nếu không phải là một dạng đồng pha giữa đồ thị lao dốc của
kinh tế với biểu đồ suy thoái của chính trị? Nhưng ở một thái cực ngược
lại, chưa bao giờ kinh tế và chính trị, hay nói chính xác hơn là chính
trị với kinh tế, lại bị lại tách rời đến thế này. Dường như chính khách
chỉ là chính khách mà quên bẵng mình là “công bộc”, và người ta lo lắng
đến chức phận của mình hơn hẳn chuyện cơm no áo ấm của nhân dân.
Hãy
trở lại câu hỏi của anh, trong đó nêu rằng ở các nước phát triển, mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị là không thể tách rời. Còn nếu sự tách
rời đó đang và sẽ xảy ra ở Việt Nam thì sự thể sẽ như thế nào?
Hiển
nhiên, ai cũng thấy là một nền chính trị sẽ không thể giữ được chân
đứng vững chắc nếu nó tách rời cơ sở hạ tầng kinh tế, thoát ly cái chức
trách lo lắng cho đồng bào của mình.
Làm sao để thay đổi?
Mặc Lâm: Ông
dự đoán thế nào nếu ông Thống đốc ra đi? Một nền kinh tế tươi mới hơn
hay cần thời gian chuyển tiếp chờ đợi người kế vị rửa sạch những gì mà
ông Bình để lại?
TS. Phạm Chí Dũng: Thành
thật mà nói, tôi cũng không dám hy vọng rằng bỏ đi một nhân vật như
Thống đốc Nguyễn Văn Bình có thể làm cho tình hình kinh tế tốt hơn, nhất
là với bệnh trạng các huyết mạch tài chính đã xơ vữa cùng tắc nghẽn,
luôn chực chờ một sang chấn bùng vỡ.
Tôi
hiểu câu hỏi của anh và tâm tư của những người mà tôi có thể đồng cảm.
Không phải vì những người này không quá chán ngán não trạng và cung cách
của giới quan chức lợi ích và những người theo chủ nghĩa thân hữu, mà
có thể họ chưa tìm được một lối ra nào từ thực trạng mà họ coi là “đánh
bùn sang ao”. Thay kẻ này thì sẽ có ngay một kẻ khác trám vào, có khi
còn tệ hơn nữa - họ nghĩ thế.
Nhưng
bài toán đang thắt nút tại điểm sinh tử của nó: nếu những lãnh đạo vô
trách nhiệm không ra đi thì ai sẽ phải đi ra? Người dân chăng? Mà nhân
dân thì còn nơi nào để mà đi khi mọi nơi đều là quan chức, và hơn thế,
mọi nơi đều vang lên tiếng chuông báo động về nạn quan chức lộng hành
nhũng nhiễu.
Sự
thay đổi tối thiểu, khả dĩ nhất và an toàn nhất đối với Đảng và Chính
phủ là cần từ bỏ chế độc quyền kinh doanh và độc quyền quản lý tài chính
– điều mà chính Quốc hội cũng đã một số lần phải lên tiếng. Nhưng sự
lên tiếng này vẫn còn quá nhỏ nhẹ trong thời buổi âm thanh lũng đoạn ồn ã
hơn rất nhiều.
Nhưng
nói gì thì nói, hãy nên bắt đầu từ việc nhỏ với những kết quả nhỏ, bởi
những người muốn có một sự thay đổi mang tính cải tổ ngay lập tức sẽ
phải rước lấy nỗi thất vọng tức thì. Trong bối cảnh chính trị “đồng
hành” với kinh tế như thế này, thật khó có thể xảy ra một biến đổi nào
đủ lớn để thỏa mãn một phần nhỏ yêu cầu dân quyền và dân sinh, ít ra cho
đến năm 2015.
Mặc Lâm: Ông có chờ đợi một thay đổi chính trị nào từ phía chính phủ để kích hoạt nền kinh tế hiện nay?
TS. Phạm Chí Dũng: Một
thay đổi nào đó, nếu có, theo tôi chỉ có thể xảy đến từ Chính phủ. Nếu
2008 là thời điểm khởi đầu cho chu kỳ lao dốc của đường biểu diễn kinh
tế quốc gia, thì biểu đồ suy thoái niềm tin công dân đối với Chính phủ
cũng song hành không kém thua về khía cạnh bĩ cực.
Chưa
bao giờ trong lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam lại có một chính phủ, với
một bộ máy công quyền đậm dấu ấn tư quyền và quá tươi hồng trong công
tác tham mưu, bị sói mòn niềm tin xã hội đến như thế.
Uy
tín cá nhân thủ tướng cũng vì thế bị “giảm sút nghiêm trọng” – như tổng
kết của không ít nhà phân tích chính trị trong nước và quốc tế. Nhưng
tôi cho rằng tính từ “nghiêm trọng” còn mang hàm ý khiêm tốn, nếu tổ
chức một cuộc trưng cầu ý dân thật sự công khai và minh bạch.
Thật
quá rõ, một bộ máy tham mưu như các bộ ngành hiện thời là quá khó cho
bất cứ thủ tướng nào trên thế giới để lấy lại những gì đã mất.
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.