Nguyễn Văn Thạnh
Thời gian qua, cộng đồng mạng chấn động bởi hai vụ bắt liên tiếp hai
blogger nổi tiếng là Hồng Lê Thọ và Bọ Lập (nhà văn Nguyễn Quang Lập).
Trong sự kiện chấn động đó có điều làm nhiều người ngạc nhiên về lý do
bắt. Đối với blogger Hồng Lê Thọ thì bắt từ nguồn tin tố giác của quần
chúng và bắt quả tang, còn Bọ Lập thì không thấy nói quần chúng tố giác
mà chỉ thấy nói bắt quả tang. Cái lý do bắt quả tang làm nhiều người
ngạc nhiên và rất khó hiểu, đến mức vợ ông Nguyễn Quang Lập phải thốt lên "Bắt quả tang cái gì, đang viết văn thì bắt quả tang viết văn à?...".
Chúng ta biết rằng, an ninh VN có thể bắt bất cứ ai viết lách với cáo
buộc vi phạm điều 258 BLHS, tại sao lần này họ đưa ra lý do có vẻ lạ
lẫm và khôi hài như vậy?
Một trong những vấn nạn mà người dân thấp cổ bé miệng phải chịu là
nạn bắt người tùy tiện của nhà cầm quyền. Xưa có Thúy Kiều tan nát cuộc
đời vì một chuyện rất ất ơ. Từ sự vu oan của thằng bán tơ mà "Người nách thước, kẻ tay đao Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi" khám xét, bắt bớ, tra tấn,... làm tan nát một gia đình.
Vấn nạn lạm quyền bắt người tùy tiện không chỉ diễn ra ở chế độ phong
kiến và diễn ra ở khắp nơi, nhất là ở những xứ độc tài. Những ai đọc
tác phẩm Quần đảo ngục tù
của nhà văn Solzhenitsyn thì thấy cảnh bắt tùy tiện một cách kinh hoàng
thời Liên Xô. Có thời ở VN chúng ta cũng diễn ra cảnh bắt bớ, giam cầm
người dân hết sức tùy tiện.
Trước thực trạng này, trong tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, Điều 9 nêu
rõ: Không ai có thể bị bắt giữ, giam cầm hay lưu đầy một cách độc đoán.
Quy định này sau đó được cụ thể hóa trong Điều 9 ICCPR (Công ước quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị), trong đó nêu rõ rằng: Mọi người đều
có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam
giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền
đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định. Viêt
Nam đã tham gia ICCPR vào năm 1982 nên có trách nhiệm tuân thủ công ước
trên.
Trong pháp luật Việt Nam, tương ứng với nội dung Điều 9 (và cả các
Điều 7, 8, 10, 11, 14, 15 ICCPR), Điều 71 Hiến pháp quy định: “Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có
quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chusẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ
người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình,
xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”. Điều 72 Hiến pháp nêu
rõ, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khoản Điều này quy định: “Người
bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được
bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái
pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho
người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Các quy định kể trên được cụ
thể hoá trong BLHS, BLTTHS, BLDS và nhiều văn bản pháp luật khác. Theo
Điều 6 BLTTHS, không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Điều 7 Bộ luật này quy định: “Công dân có quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý
theo pháp luật...” Cũng theo Điều này, người bị hại, người làm
chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà
bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài
sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện
pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật. BLHS bao gồm một
chương quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXII),
trong đó bao gồm các tội: Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không
có tội (Điều 293); Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 295); Tội ra quyết
định trái pháp luật (Điều 296); Tội dùng nhục hình (Điều 298); Tội bức
cung (Điều 299)... (Trích câu 75: Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện
được quy định như thế nào trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam?
Sách "Hỏi đáp về quyền con người" -NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ
NỘI).
Như vậy, cả tuyên ngôn quốc tế, công ước quốc tế, hiến pháp, các bộ
luật Việt Nam thừa nhận quyền tự do của công dân chống lại việc bị bắt,
giam giữ tùy tiện. Theo qui định này, cơ quan chức năng mà cụ thể ở đây
là cơ quan công an chỉ có thể bắt người không hai trường hợp là phạm tội
quả tang hoặc có lệnh của của Tòa án hay có sự phê chuẩn của Viện kiểm
sát. Tức là phải có nguyên cớ, lý do cho việc bắt giữ chứ không thể bắt
giữ tùy tiện được.
Trong vụ án Cù Huy Hà Vũ thì lý lo đưa đến việc bắt giữ là có người
phụ nữ lạ ở trong khách sạn với tang chứng là hai bao cao su đã qua sử
dụng. Tất nhiên lý do này hết sức buồn cười, đã làm cho cộng đồng mạng
thấy ghê tởm còn một vị giáo sư thì nói cẩu thả. Còn trong cáo trạng của
vụ án Trương Duy Nhất thì lý do đưa đến việc bắt giữ là sự cung cấp
thông tin từ công ty cung cấp dịch vụ mạng FPT, điều này đã dấy lên sự
phản đối từ người tiêu dùng vì nó vi phạm đến quyền lợi khách hàng, đạo
đức kinh doanh. Lý do này đụng chạm đến lợi ích kinh doanh các công ty
nên chắc họ cũng không chịu giơ đầu chịu báng nữa.
Có lẽ không thể dùng các lý do "chính đáng' như trên nữa nên gần đây
cơ quan chức năng sử dụng lý do chính đáng cho việc bắt giữ là theo
nguồn tin tố giác của quần chúng và việc bắt giữ là quả tang. Theo
loogic của luật pháp thì có vẻ nó đáp ứng được nhưng trong thực tế thì
lại lố bịch và không bảo đảm trong một số trường hợp. Cứ bắt người theo
tin tố giác của quần chung thì sẽ rất dễ đưa đến lạm quyền, bắt bớ tràn
lan. Quần chúng là một đối tượng rất nặc danh. Đọc tin bắt giữ của cơ
quan an ninh đối với blogger Hồng Lê Thọ, hẳn mọi người rất hoang mang
kiểu bắt người như vậy. Sự nực cười, vô lý được đẩy lên mức cao hơn
trong vụ bắt giữ blogger Bọ Lập với lý do bắt quả tang khi ông ngồi
trong nhà của mình và đang viết văn. Sự nực cười đến mức bà Hồng vợ ông
phải thốt lên như trên.
Dù lý do rất buồn cười nhưng cũng có phần hoan nghênh cơ quan chức
năng VN vì ít ra họ cũng hiểu luật, hiểu quyền công dân. Họ không còn
xem trời bằng vung, họ cũng đã cố ép mình hành xử theo luật dù rằng
nhiều khi rất gượng gạo. Cơ quan chức năng bắt đầu thừa nhận sự chuẩn
mực của luật pháp cũng là điều đáng mừng (mừng rơi nước mắt và thấp thỏm
hy vọng!).
Thực tế, Luật pháp VN nhiều điểm không theo chuẩn thế giới, nhất là
việc qui tội trong việc công dân thể hiện chính kiến trên mạng-blogger,
facebooker,... - nên quá trình bắt giữ cũng khó mà chuẩn mực được. Có lẽ
vì vậy mà việc sáng tạo ra lý do "hợp lý" cho việc bắt giữ cũng rất
Việt Nam.
Nguyễn Văn Thạnh