Joseph E. Stiglitz
Đỗ Kim Thêm dịch
Đỗ Kim Thêm dịch
Quyền lực mềm: Cách đáp ứng hay nhất của Mỹ đối với Trung Quốc là đưa các vấn đề trong nước đi vào nề nếp.
Trung Quốc vừa qua mặt Mỹ trong vai trò như là một nền kinh tế lớn
nhất thế giới mà không phô trương ồn ào - dù trên thực tế, chúng ta cần
có một số nghi ngờ về vị thế mới này của Trung Quốc -. Đây là một lời
kêu gọi cảnh tỉnh, và nên có một tiếng kêu như vậy - nhưng không phải là
loại kêu gọi mà hầu hết người Mỹ có thể hình dung.
Khi lịch sử năm 2014 được viết ra, nó sẽ ghi nhận một sự kiện quan
trọng mà ít người quan tâm:2014 là năm cuối cùng mà Mỹ có thể tuyên bố
mình là cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới. Bước vào năm 2015 Trung
Quốc chiếm vị trí thượng đỉnh, và có thể sẽ vẫn còn giữ vị thế này trong
một thời gian dài, dù không chắc là vĩnh cữu. Khi đạt được như vậy,
Trung Quốc trở về một tư thế mà họ đã giữ được trong suốt hầu hết lịch
sử của loài người.
So sánh Tổng Sản Lượng Nội Địa của các nền kinh tế khác nhau là một
việc rất khó. Các Ủy ban Chuyên trách đi đến những ước tính, mà họ dựa
trên những thẩm định khả dĩ tốt nhất, đó là những gì mà họ gọi là “sức
mua tương đương", chỉ số này cho phép so sánh về thu nhập ở các nước
khác nhau. Nhưng so sánh này không lấy ra được các số liệu coi như là
chính xác, nhưng chúng sẽ cung cấp một cơ sở tốt để đánh giá kích thước
tương đối của các nền kinh tế khác nhau. Đầu năm 2014, một cơ quan tiến
hành những đánh giá quốc tế này đã đưa ra với những số liệu mới, cơ quan
này có tên là Chương trình So sánh Quốc tế của Ngân hàng Thế giới.
(Nhiệm vụ này phức tạp đến như vậy nên trong vòng 20 năm chỉ có ba bản
báo cáo). Các đánh giá mới nhất được phổ biến vào mùa xuân vừa qua đã
gây tranh cãi nhiều hơn, và theo một số cách khác nhau, là quan trọng
hơn, khi so với những báo cáo của các năm trước. Rõ ràng là các đánh giá
này gây tranh cãi nhiều hơn vì nó quan trọng hơn: những số liệu mới cho
thấy Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, nó đến sớm
hơn so với bất cứ ai đã mong đợi - đó là cách đúng đắn mà người ta làm
như vậy trước khi năm 2014 kết thúc.
Nguồn gốc của sự tranh cãi sẽ gây ngạc nhiên cho một vài người Mỹ, và
nó nói nhiều về sự dị biệt giữa Trung Quốc và Mỹ - và về sự nguy hiểm
khi dự phóng để theo dõi người Hoa trong một số thái độ của người Mỹ.
Người Mỹ rất muốn mình thành số 1, người Mỹ chúng ta có niềm vui khi
được ở vị thế này. Ngược lại, Trung Quốc không quá háo hức. Theo một số
báo cáo, các đại biểu Trung Quốc thậm chí còn đe dọa không tham gia
trong các cuộc thảo luận về chuyên môn. Có một điều mà Trung Quốc không
muốn phải trả một giá để đổi lấy vị thế số một khi đem cái đầu của mình
treo trên bờ công sự phòng thủ. Vấn đề có nghĩa là Trung Quốc chi trả
nhiều hơn để hỗ trợ các cơ quan quốc tế như Liên Hiệp Quốc. Nó có thể
mang lại áp lực để họ nhận ra là họ có một vai trò lãnh đạo cho các vấn
đề như biến đổi khí hậu. Điều nay dễ làm cho một người Hoa bình thường
tự hỏi ngay là liệu có nên đem tiền của đất nước để chi nhiều hơn cho
các vấn đề này không. (Trong thực tế, các tin tức về sự thay đổi vị thế
của Trung Quốc không được biết đến ở trong nước.) Có một mối quan tâm
hơn và lại là một quan tâm lớn lao: Trung Quốc hiểu rõ mối bận tâm của
Mỹ với việc Mỹ là số 1 - và Trung Quốc cực kỳ lo ngại về việc Mỹ phản
ứng ra sao khi Mỹ không còn là số 1 nữa.
Tất nhiên là có nhiều cách, - ta hãy lấy ví dụ như cách tính theo
điều kiện của xuất khẩu và tiết kiệm theo hộ gia đình –Trung Quốc đã
vượt qua Mỹ từ lâu. Với tiết kiệm và đầu tư chiếm dụng gần 50% của
TSLQN, Trung Quốc lo lắng về việc mình tiết kiệm quá mức, đó là vấn đề
mà Mỹ ít quan tâm. Trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như công nghệ chế
biến, Trung Quốc đã vượt Mỹ chỉ trong vòng nhiều năm qua. Trung Quốc vẫn
theo sau Mỹ về số lượng bằng sáng chế được giải thưởng, nhưng họ đang
thu hẹp khoảng cách.
Các lĩnh vực mà Mỹ vẫn còn có thể cạnh tranh được với Trung Quốc
không phải lúc nào cũng là những lĩnh vực mà chúng ta muốn tạo sự quan
tâm nhất. Mức độ bất bình đẳng giữa hai quốc gia là có thể so sánh được.
(Tình trạng bất công của Mỹ là cao nhất trong thế giới phát triển.)
Trung Quốc vượt hơn Mỹ về số lượng người bị xử tử hình mỗi năm, nhưng Mỹ
vượt hơn khi so về tỷ lệ dân số trong tù (nhiều hơn 700 người trong mỗi
100.000 người). Trung Quốc đã vượt Mỹ vào năm 2007 như là nước gây ô
nhiễm lớn nhất thế giới, nếu tính theo khối lượng chung, mặc dù trên cơ
sở bình quân đầu người thì Mỹ tiếp tục đứng đầu. Mỹ vẫn là cường quốc
quân sự lớn nhất, chi tiêu nhiều hơn cho các lực lượng vũ trang khi so
với số chi của 10 quốc gia đứng đầu đem cộng lại (không có nghĩa là
chúng ta đã luôn luôn sử dụng sức mạnh quân sự một cách khôn ngoan).
Nhưng sức mạnh nền tảng của Mỹ thường ít dựa vào sức mạnh của quân sự
hơn là dựa trên "quyền lực mềm", đáng kể đặc biệt nhất là ảnh hưởng kinh
tế của mình. Đó là một điểm chính cần lưu tâm.
Rõ ràng là có những sự thay đổi về cách kiến tạo trong sức mạnh kinh
tế toàn cầu đã xãy ra trước đây, và kết quả mà chúng ta biết là có điều
gì đó xãy ra khi có sự thay đổi. Hai trăm năm trước đây, sau cuộc chiến
Napoleon, nước Anh nổi lên như là một cường quốc thống trị thế giới. Đế
chế Anh mở rộng một phần tư địa cầu. Tiền tệ Anh là đồng Bảng đã trở
thành tiền tệ dự trữ trong toàn cầu, - có giá trị vững chắc như vàng.
Nước Anh, đôi khi hợp tác nhịp nhàng với các đồng minh của mình để áp
đặt các quy luật riêng về thương mại. Luật có thể cho phép phân biệt đối
xử để chống lại việc nhập khẩu hàng dệt của Ấn Độ và buộc Ấn Độ để mua
quần áo của Anh. Anh và các đồng minh cũng có thể kiên quyết buộc Trung
Quốc mở cửa thị trường cho việc mua bán nha phiến, và khi Trung Quốc
biết hậu quả tàn phá của nó, cố gắng đóng cửa biên giới, đồng minh hai
lần gây chiến để duy trì mức lưu lượng tự do của sản phẩm này.
Sự thống trị của Anh kéo dài một trăm năm và tiếp tục ngay cả sau khi
Mỹ đã vượt qua Anh về kinh tế, trong những năm 1870. Luôn luôn có một
mức độ chậm trễ (việc này sẽ có với Mỹ và Trung Quốc). Biến cố chuyển
tiếp là thế chiến lần thứ nhất, khi Anh thắng Đức với chi viện của Mỹ.
Sau chiến tranh, Mỹ đã miễn cưỡng chấp nhận dùng tiềm năng của mình cho
các trách nhiệm mới, trong khi Anh đã tự nguyện từ bỏ vai trò của mình.
Woodrow Wilson đã làm những gì có thể làm được để xây dựng một thế giới
hậu chiến mà một cuộc xung đột toàn cầu khác ít điều kiện xãy ra hơn,
nhưng theo đuổi chủ thuyết cô lập trong nước có nghĩa là Mỹ không bao
giờ tham gia vào Hội Quốc Liên. Trong lĩnh vực kinh tế, Mỹ kiên quyết đi
theo phương sách của mình - thông qua quan thuế biểu của Smoot-Hawley
và kết thúc một kỷ nguyên mà chúng ta đã chứng kiến về một sự bùng nổ
trên toàn thế giới trong lĩnh vực thương mại. Anh duy trì đế chế của
mình, nhưng dần dần đồng Bảng Anh nhường chỗ cho đồng Đô la: cuối cùng,
các thực tế kinh tế khống chế. Nhiều công ty Mỹ đã trở thành doanh
nghiệp toàn cầu, và văn hóa Mỹ đã lên cao thấy rõ.
Thế chiến thứ hai là một biến cố kế tiếp mang tính cách định hình. Bị
tàn phá bởi cuộc xung đột, Anh mất đi hầu như tất cả các thuộc địa. Đó
là thời điểm mà Mỹ đảm nhận trọng trách lãnh đạo. Mỹ là trung tâm trong
việc tạo ra cơ quan Liên Hiệp Quốc và quy định khuôn mẩu cho các thỏa
ước Bretton Woods, hệ thống này sẽ làm cơ sở cho trật tự mới về chính
trị và kinh tế. Dù vậy, thành tích là không đều đặn. Thay vì tạo ra một
loại tiền tệ dự trữ cho toàn cầu mà nó sẽ đóng góp nhiều hơn cho sự ổn
định kinh tế thế giới, - như John Maynard Keynes đã lập luận một cách
đúng đắn - Mỹ đặt lợi ích ngắn hạn của mình lên hàng đầu, suy nghĩ một
cách ngu xuẩn là Mỹ sẽ thắng thế với đồng Đô la khi nó trở thành khối
tiền dự trữ của thế giới. Vị thế của đồng Đô la là một con dao hai lưỡi:
nó cho phép Mỹ vay tiền với lãi suất thấp, trong khi những nước khác có
nhu cầu để đưa đồng Đô la vào khối lượng dự trữ của mình, nhưng đồng
thời làm cho giá trị của đồng đô la tăng lên, (cao hơn mức mà người ta
có thể đạt được bằng cách nào khác) tạo ra hoặc làm trầm trọng tình
trạng thâm hụt mậu dịch và suy yếu nền kinh tế.
45 năm sau thế chiến thứ hai, chính trị toàn cầu bị hai siêu cường Mỹ
và Liên Xô chế ngự, cả hai tiêu biểu cho hai quan điểm khác nhau về
cách thức tổ chức và chi phối nền kinh tế và xã hội và về tầm quan trọng
tương đối của các quyền chính trị và kinh tế. Cuối cùng, hệ thống Xô
Viết đã thất bại với nhiều lý do, vì tham nhũng nội bộ, các tiến trình
dân chủ không được ai kiểm soát, và nhiều thứ khác. Sức mạnh quân sự của
Liên Xô đáng ghê sợ; về quyền lực mềm của họ thì ngày càng là một trò
cười. Hiện tại trên thế giới đã bị chế ngự bởi một siêu cường duy nhất,
một siêu cường tiếp tục đầu tư mạnh vào lĩnh vực quân sự của mình. Điều
đó nói rằng Mỹ là một siêu cường không chỉ về quân sự mà còn về kinh tế.
Sau đó Mỹ đã phạm phải hai sai lầm nghiêm trọng. Thứ nhất, từ chiến
thắng của mình mà Mỹ suy ra rằng đó là một thắng lợi cho tất cả mọi thứ
mà Mỹ đang làm tiêu biểu. Nhưng ở nhiều nước thế giới thứ ba, mối quan
tâm về nghèo đói - và các quyền kinh tế mà chính giới cánh tả đã ủng hộ
từ lâu - vẫn là tối quan trọng. Sai lầm thứ hai là sử dụng sự khống chế
đơn phương trong một thời gian ngắn, đó là thời kỳ giữa sự sụp đổ của
Bức tường Berlin và sự sụp đổ của Lehman Brothers, để theo đuổi lợi ích
kinh tế hạn hẹp của mình, - hay nói chính xác hơn, các lợi ích kinh tế
của các công ty đa quốc, bao gồm các ngân hàng lớn, chứ không phải là để
tạo ra một trật tự thế giới mới ổn định. Chế độ mậu dịch mà Mỹ đã thúc
đẩy trong năm 1994 tạo ra Tổ chức Thương mại Thế giới, đã bất quân bình
đến độ mà mà năm năm sau đó, khi một hiệp định thương mại khác sắp xảy
ra, triển vọng này dẫn đến bạo loạn ở Seattle. Trong khi đàm phán về mậu
dịch tự do và công bình, Mỹ lại kiên quyết (lấy một ví dụ) trợ cấp cho
nông dân giàu có của mình, việc này tạo cho Mỹ là có tinh thần đạo đức
giả và riêng mình hưởng lợi.
Và Washington không bao giờ hoàn toàn nắm bắt những hậu quả cuả một
vài trong số các hành động thiển cận của mình – khi Washington có dự
định mở rộng và cũng cố sự thống trị, nhưng trong thực tế, về lâu dài
làm cho vị thế suy giảm. Trong cuộc khủng hoảng tại Đông Á vào những năm
1990, Bộ Tài chính Mỹ đã làm việc tận lực để làm suy yếu cái gọi là
sáng kiến Miyazawa, một đề nghị hào phóng của Nhật Bản với 100 tỷ Đô la
để giúp các nền kinh tế nhảy vọt đã chìm vào suy trầm và suy thoái. Các
chính sách của Mỹ đã thúc đẩy các nước này phải chịu thắt lưng buộc bụng
và trả lãi suất cao, không có bảo chứng sơ cứu cho các ngân hàng khi
gặp nguy khốn, tất cả làm tương phản với những gì mà các quan chức của
Bộ Tài Chính ủng hộ cho Mỹ sau cuộc khủng hoảng năm 2008. Thậm chí ngày
nay, 15 năm sau cuộc khủng hoảng tại Đông Á, chỉ cần đề cập đến vai trò
của Mỹ là có thể tạo ra ngay những cáo giác giận giữ và phê phán về đạo
đức giả của Mỹ ở các thủ đô châu Á .
Hiện nay Trung Quốc là cường quốc kinh tế số 1 của thế giới. Tại sao
chúng ta phải quan tâm? Ở một mức độ, thực sự ra chúng ta không nên quan
tâm. Các nền kinh tế thế giới không phải là một trò chơi một là thắng
và hai là thua, nơi mà sự tăng trưởng của Trung Quốc nhất thiết phải dẫn
đến các thua lỗ của chúng ta. Trong thực tế, tăng trưởng của Trung Quốc
bổ sung cho tăng trưởng của chúng ta. Nếu Trung Quốc phát triển nhanh
hơn, Trung Quốc sẽ mua nhiều hàng hóa của Mỹ, và chúng ta sẽ thịnh
vượng. Để đoan chắc, người ta luôn có một chút ít cường điệu trong các
lời tuyên bố như vậy, - chỉ cần hỏi công nhân bị mất việc sản xuất chế
biến khi chuyển sang Trung Quốc. Nhưng thực tế đã có nhiều liên quan đến
các chính sách kinh tế quốc nội của chúng ta cũng như khi nó liên quan
đến việc trổi dậy một số nước khác
Trên một mức độ khác, sự nổi lên của Trung Quốc vào vị trí hàng đầu
là vấn đề rất lớn, và chúng ta cần phải nhận thức các hệ lụy.
Thứ nhất, như đã nói, sức mạnh thực sự của nước Mỹ nằm ở quyền lực
mềm - một khuôn mẫu để cung cấp cho người khác và gây ảnh hưởng về các ý
tưởng của mình, bao gồm cả những ý tưởng về sinh hoạt kinh tế và chính
trị. Sự trổi dậy của Trung Quốc trong vị trí thứ 1 mang đến sự nổi bật
mới cho một mô hình chính trị và kinh tế của đất nước - và cho các hình
thức riêng mình về quyền lực mềm. Sự nổi lên của Trung Quốc cũng là một
đèn rọi chói mắt tỏa sáng vào mô hình của Mỹ. Đó là mô hình đã không
cung ứng được cho phần lớn dân số của mình. Các gia đình Mỹ điển hình
sống tệ hơn so với một phần tư thế kỷ trước, sau khi được điều chỉnh
theo giá lạm phát; tỷ lệ người nghèo đã tăng lên. Trung Quốc cũng vậy,
tình trạng bất bình đẳng được đánh dấu là ở mức độ cao, nhưng đối với đa
số người dân thì nền kinh tế chung có làm tốt hơn. Trung Quốc đã đem
khoảng 500 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo trong cùng khoảng thời
gian đó người ta thấy tầng lớp trung lưu của Mỹ bước vào giai đoạn trì
trệ. Một mô hình kinh tế không phục vụ đa số cho người dân của mình thì
sẽ không đem lại một vai trò như khuôn mẫu để cho người khác noi theo.
Mỹ nên thấy sự nổi lên của Trung Quốc như một lời kêu gọi cảnh tỉnh cho
mình để làm sao đưa các vấn đề trong nước đi vào nề nếp.
Thứ hai, nếu chúng ta suy nghĩ về sự nổi lên của Trung Quốc và sau đó
có những hành động dựa trên ý tưởng rằng các nền kinh tế trên thế giới
thực sự là một trò chơi được ăn cả và ngã về không - và do đó, chúng ta
cần phải tăng phần lợi của chúng ta và làm giảm phần của Trung Quốc –
thậm chí chúng ta sẽ làm hỏng dần phần quyền lực mềm của chúng ta. Đúng
ra, điều này sẽ là loại kêu gọi thức tỉnh sai lạc. Nếu chúng ta nhìn
thấy sự thắng thế của Trung Quốc là phần thua lỗ của chúng ta, thì chúng
ta sẽ phấn đấu để "ngăn chặn", thực hiện các biện pháp để hạn chế ảnh
hưởng của Trung Quốc. Cuối cùng, những hành động này xem ra là vô ích,
nhưng dù sao cũng sẽ làm suy yếu lòng tin và vị thế lãnh đạo của Mỹ.
Chính sách đối ngoại của Mỹ đã nhiều lần rơi vào cái bẫy này. Chúng ta
hãy xem cái gọi là mối quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương - một thỏa
ước tự do mậu dịch giữa Mỹ, Nhật Bản và một số nước châu Á khác -, trong
đó loại trừ Trung Quốc. Nhiều người xem đó như là một cách để thắt chặt
mối liên hệ giữa Mỹ và các quốc gia châu Á, với cái giá là không liên
kết với Trung Quốc. Có một chuỗi cung ứng châu Á rộng lớn và năng động,
với hàng hóa di chuyển xung quanh khu vực trong giai đoạn khác nhau
trong sản xuất; Đối tác Xuyên Thái Bình Dương trông giống như một nỗ lực
để cắt Trung Quốc ra khỏi dây chuyền cung ứng này.
Một ví dụ khác: với một cách ngờ vực Mỹ nhìn những nỗ lực còn nhen
nhúm của Trung Quốc khi đảm nhận trách nhiệm toàn cầu trong một số lĩnh
vực. Trung Quốc muốn đảm nhận một vai trò lớn hơn trong các tổ chức quốc
tế hiện nay, nhưng thực ra, Quốc hội nói là các câu lạc bộ cũ không
muốn có các thành viên mới hoạt động: họ có thể tiếp tục chiếm một vị
thế thứ yếu, nhưng họ không thể có quyền biểu quyết tương xứng với vai
trò trong nền kinh tế toàn cầu của họ. Khi quốc gia khác trong khối G -
20 đồng ý rằng đó là bây giờ chính là thời điểm mà các lãnh đạo của các
tổ chức kinh tế quốc tế đ ược xác định dựa trên cơ sở là thành tích,
không dựa trên tiêu chuẩn quốc tịch, Mỹ khẳng định rằng trật tự cũ là đủ
tốt, - lấy một thí dụ là Ngân hàng Thế giới phải được tiếp tục lãnh đạo
do người Mỹ.
Lại thêm một ví dụ khác: được hỗ trợ bởi một Ủy ban Quốc tế các
Chuyên gia do Chủ tịch Liên Hiệp Quốc bổ nhiệm, mà tôi là người đứng chủ
trì, - Trung Quốc cùng với Pháp và các nước khác đề nghị chúng tôi đúc
kết công trình mà Keynes đã khởi đầu tại Bretton Woods, bằng cách tạo ra
một tiền tệ dự trữ quốc tế, Mỹ ngăn chặn các nỗ lực này.
Và ví dụ cuối cùng: Mỹ đã tìm cách ngăn cản những nỗ lực của Trung
Quốc trong các kênh hỗ trợ nhiều hơn cho các nước đang phát triển thông
qua các tổ chức đa phương mới được tạo ra, trong đó Trung Quốc sẽ có một
vai trò có lẽ chiếm ưu thế hơn. Nhu cầu hàng nghìn tỷ đô la cho đầu tư
về cơ sở hạ tầng đã được công nhận - và trong điều kiện là các đầu tư
vượt quá xa khả năng mà Ngân hàng Thế giới và các tổ chức đa phương hiện
nay. Điều cần thiết không chỉ là một chế độ quản trị toàn diện hơn tại
Ngân hàng Thế giới, nhưng cũng còn cần có nhiều vốn tư bản hơn. Về hai
vấn đề này, Quốc hội Mỹ đã phủ quyết. Trong khi đó, Trung Quốc đang cố
gắng để tạo ra một Qũy Xây dựng Cơ sở Hạ tầng cho châu Á, làm việc với
một số lớn của các nước khác trong khu vực. Mỹ đang xoắn tay tìm cách để
cho những nước này sẽ không tham gia.
Mỹ đang phải đối phó với những thách thức đích thực về chính sách đối
ngoại mà xem ra là khó giải quyết: nhóm Hồi giáo có vũ trang; xung đột
của Palestine, mà bây giờ đã keó dài bảy thập niên; một nước Nga hung
hãn, kiên quyết theo sức mạnh, ít nhất là đối với các lân quốc của Nga;
mối đe dọa liên tục của việc phổ biến vũ khí hạt nhân. Chúng ta sẽ cần
sự hợp tác của Trung Quốc để giải quyết nhiều vấn đề, nếu không phải tất
cả.
Trong khi Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, chúng
ta nên dùng thời điểm này để „chuyển trục" chính sách ngoại giao của
chúng ta thoát ra khỏi sách lược ngăn chặn. Các lợi ích kinh tế của
Trung Quốc và Mỹ đang thắt chặt nhau một cách phức tạp. Cả hai đều có
quan tâm chung khi nhìn về một trật tự chính trị và kinh tế toàn cầu ổn
định và hoạt động tốt. Với ký ức lịch sử và nhận thức riêng về phẩm giá,
Trung Quốc sẽ không thể chấp nhận hệ thống toàn cầu chỉ đơn giản là
những quy tắc đã được phương Tây lập ra, đem lợi cho người phương Tây và
lợi ích cho doanh nghiệp phương Tây và phản ánh triễn vọng của phương
Tây. Chúng ta sẽ phải hợp tác, dù muốn hay không, - và chúng ta nên muốn
như vậy. Trong khi đó, điều quan trọng nhất là nước Mỹ có thể làm để
duy trì giá trị của quyền lực mềm là nhằm giải quyết các lỗi hệ thống
của mình – các phương cách thực hành về kinh tế và chính trị đang bị
băng hoại, đặt vấn đề một cách sai trái và thiên lệch nhắm về những
người giàu có và thế lực.
Một trật tự chính trị và kinh tế toàn cầu mới đang thành hình, đó là
kết quả của những thực tế kinh tế mới. Chúng ta không thể thay đổi những
thực tế kinh tế này. Nhưng nếu chúng ta đối ứng nó một cách sai lầm,
chúng ta có nguy cơ bị phản ứng mãnh liệt, mà sẽ dẫn đến hậu quả hoặc là
một hệ thống toàn cầu sẽ bị rối loạn chức năng hoặc là một trật tự toàn
cầu mà không phải quá đặc biệt như những gì chúng ta đã mong đợi.
Nguyên tác: The Chinese Century