Dương Danh Huy
Giới thiệu
Gần đây TS Vũ Quang Việt lặp lại một số đề nghị trong một bài viết
năm 2010 của ông. Bài viết này phản biện một số điểm ông nêu ra, đặc
biệt là ba điểm sau:
- Đáng lẽ vào lúc này các nước ASEAN đã phải giải quyết vấn đề [chủ quyền đối với các đảo Trường Sa] với nhau rồi. Nước có trách nhiệm lớn nhất trong việc này là Việt Nam, nhưng Việt Nam đã không làm gì. Vẫn cho rằng Trường Sa là của mình.
- Việt Nam cũng nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei và Mã Lai.
- Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền của nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.
Trong bài viết này, các đoạn trích là từ ý kiến của TS Vũ Quang Việt trên Diễn Đàn.
Phản biện
Liên quan đến ASEAN là vấn đề chủ quyền Trường Sa mà hiện nay người Việt, đặc biệt là giới trí thức chưa có quan điểm rõ ràng. Thật ra, chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa là đến đâu? Nếu không giải quyết được vấn đề này thì khó có sự đoàn kết giữa các nước có liên quan trong khối ASEAN như Việt Nam, Phi, Mã, Brunei, Indonesia.
Ý kiến này đúng một phần, nhưng sự thật không hoàn toàn như thế, và
đó là một ý kiến thiếu quân bằng. Sự thật là có thể đoàn kết qua những
giàn xếp tạm thời tế nhị và thực tế hơn là các nước ASEAN phải giải
quyết tranh chấp chủ quyền đối với đảo/đá. Như một thí dụ, Philippines
vừa tuyên bố ủng hộ Việt Nam (đó là một sự đoàn kết), trong khi chưa
giải quyết xong tranh chấp chủ quyền đối với đảo/đá.
ASEAN thiếu đoàn kết là vì rất nhiều lý do, chứ không phải tranh chấp
chủ quyền đối với đảo/đá. Các nước ASEAN khác nhau nhiều về chính trị,
tôn giáo, kinh tế, ngoại giao, lợi ích quốc gia, và đặc biệt là trong
quan hệ với Trung Quốc trong các lãnh vực ngoại giao, thương mại, viện
trợ. Tất cả những điều đó đều gây chia rẽ chứ không chỉ tranh chấp chủ
quyền trên các đảo/đá Trường Sa.
Chúng ta cần nhìn nhận thực tế, thí dụ như sau:
- Trên thực tế, nước ASEAN có nhiều tranh chấp đảo/đá với Việt Nam nhất là Philippines, nhưng trong những năm vừa qua nước này lại đoàn kết với Việt Nam nhất trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông. Ngoài sự ủng hộ cho Việt Nam trong sự kiện HD-981, khi Trung Quốc tuyên bố thành phố Tam Sa năm 2012, Philippines đã nêu lên trong phản đối của họ rằng Hoàng Sa không phải là của Trung Quốc mà Việt Nam cũng đòi chủ quyền.
- Trên thực tế, nước ASEAN có nhiều tranh chấp đảo/đá với Việt Nam thứ nhì là Malaysia, nhưng năm 2009 Malaysia đã cùng Việt Nam nộp hồ sơ cho Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa.
- Ngày 22/5/2014, Thủ tướng Malaysia Najib Razak trả lời báo Nhật (http://www.thestar.com.my/News/Nation/2014/05/22/najib-razak-malaysia-china-japan-territorial-disputes/) về chính sách kém quyết liệt của nước mình với Trung Quốc như sau, “We must look at the big picture and not define relations with China on a single-issue basis but look at the broad spectrum of the relations, and recognize the strategic importance of our bilateral relationship with China … We do not want [the territorial] issue to be an impediment to the growing ties between Malaysia and China.” Theo trả lời này, Malaysia không quyết liệt như Việt Nam và Philippines không phải là vì Việt Nam và Malaysia có tranh chấp đảo, mà là vì tầm quan trọng chiến lược và bề rộng của quan hệ với Trung Quốc đối với Malaysia. Như vậy, giả sử như Việt Nam có nhượng bộ cho Malaysia tất cả các đảo mà họ đòi thì cũng chưa chắc là họ sẽ đoàn kết với chúng ta để chống Trung Quốc, vì họ sẽ còn tính tới “the broad spectrum of the relations [with China]”, “the strategic importance of our bilateral relationship with China”, và “the growing ties between Malaysia and China”.
- Trên thực tế, nước ASEAN chia rẽ nhiều nhất cới các nước khác là Campuchia, trong khi nước này không tranh chấp đảo/đá nào ở Trường Sa.
Bốn thí dụ trên ủng hộ mạnh mẽ quan điểm có nhiều điều chia rẽ ASEAN,
và tranh chấp đảo/đá ở Trường Sa không phải là điều chia rẽ nhiều nhất.
Đúng là câu hỏi “chủ quyền của Việt Nam ở Trường Sa là đến đâu?” là rất quan trọng, nhưng trước nhất phải trả lời câu hỏi đó dựa trên luật quốc tế, không nên trả lời một cách tùy tiện.
Đáng lẽ vào lúc này các nước ASEAN đã phải giải quyết vấn đề với nhau rồi. Nước có trách nhiệm lớn nhất trong việc này là Việt Nam, nhưng Việt Nam đã không làm gì. Vẫn cho rằng Trường Sa là của mình.
Quan điểm này không chính xác ở hai điểm.
Thứ nhất, các nước ASEAN không thể nào giải quyết vấn đề tranh chấp
đảo/đá với nhau trong khi bỏ qua Trung Quốc và Đài Loan. Nếu các nước
này cùng nhau đàm phán chia đảo/đá, bỏ qua Trung Quốc và Đài Loan, thì
sẽ hoàn toàn vô nghĩa. Trung Quốc và Đài Loan sẽ không chấp nhận, thế
giới sẽ không ủng hộ, và nếu ra tòa thì tòa cũng sẽ không chấp nhận.
Thứ nhì, vì lý do trên, việc đổ thừa trách nhiệm lớn nhất cho việc
chưa gải quyết tranh chấp đảo/đá cho Việt Nam là không chính xác. Ngoài
ra, Philippines cũng cho rằng đại đa số các đảo/đá Trường Sa là của họ
(chỉ trừ đảo Trường Sa lớn, Đá Lát và một số mỏm đá phụ cận).
Chính vì thế mới tạo thời gian và cơ sở cho Trung Quốc hành động bất ngờ, đem dàn khoan vào EEZ của Việt Nam và ở gần ngay Hoàng Sa như thế.
Ý kiến này cũng không chính xác ở hai điểm. Để biện luận cho hành động sai trái của họ, Trung Quốc đã đưa ra “cơ sở” Hoàng Sa là của họ, và đó là vùng nước (không được định nghĩa) thuộc Hoàng Sa. Cơ sở đó không liên quan gì đến Trường Sa.
Ý kiến "chính vì thế" có vẻ hơi quá. Có nhiều yếu tố trong
tính toán của Trung Quốc, không chỉ việc Việt Nam, Philippines, Malaysia
và Brunei chưa giải quyết xong tranh chấp chủ quyền đảo/đá với nhau.
Trung Quốc hành động lúc mà Mỹ không có khả năng có hành động trả đũa
(và cũng không có cớ để hành động dù muốn) và lúc mà các nước ASEAN
chia rẽ, kể cả 4 nước đòi chủ quyền ở Trường Sa. Trung Quốc muốn tạo sự
đã rồi. Nó hành động đúng vào lúc mà toà án quốc tế chưa xử vụ kiện của
Phi. Nó hành động đúng vào chỗ chỉ có tranh chấp giữa Việt Nam và Trung
Quốc, ở chỗ mà Việt Nam chưa dám đưa ra toà để kiện.
Như đã trình bày trên, ASEAN chia rẽ vì nhiều lý do chứ không chỉ vì
tranh chấp chủ quyền đảo/đá tại Trường Sa. Do đó, để đối phó với sự chia
rẽ đó, cần có nhiều biện pháp nhằm xử lý các lý do khác nhau. Việc tập
trung quá đáng vào giải quyết tranh chấp đảo/đá là không thực tế (vì nếu
giải quyết tranh chấp đảo/đá với nhau bỏ qua Trung Quốc và Đài Loan thì
thế giới không công nhận) và không hiệu nghiệm (vì có nhiều chia rẽ
khác lớn hơn).
Việc Việt Nam cần làm là giải quyết với các nước Đông Nam Á khác cũng đòi chủ quyền như Phi, Mã Lai, Brunei.
Nếu thực hiện được thì cũng tốt, nhưng việc đó không khả thi (như đã
trình bày), ít hiệu nghiệm, và không phải là thiết yếu. Eg, Philippines
và Malaysia đã từng hợp tác với và ủng hộ Việt Nam trong khi chưa giải
quyết xong vấn đề chủ quyền đối với đảo/đá.
Điều này chỉ có thể làm được nếu như Việt Nam từ bỏ ý đồ cho rằng toàn bộ các đảo/đá/bãi ở Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Có nhiều lý do để thấy đòi hỏi này của Việt Nam là có vấn đề
a) lịch sử không chứng minh được Trường Sa là thuộc Việt Nam; Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở đây là vùng đất vô chủ (và chỉ ghi được 6 địa danh trong hàng vài chục địa danh);
b) có muốn hết cũng không có sức thực hiện được việc hành xử chủ quyền;
c) càng muốn thì càng chứng tỏ rằng mình là tiểu bá.
Việc Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở Trường Sa là đất vô chủ không có nghĩa “lịch sử không chứng minh được Trường Sa là thuộc Việt Nam”. Đó là một mệnh đề lỏng lẻo, thiếu cẩn thận, gây ấn tượng sai và bất lợi cho Việt Nam. “Lịch sử” là lịch sử nào? Thời thượng cổ, hay trung cổ, hay cận đại, hay hiện đại, hay tất cả lịch sử từ xưa đến nay. “Lịch sử”,
với định nghĩa nó là những gì đã xảy ra trong quá khứ, bao gồm cả việc
tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa, không nước nào phản đối, Pháp sáp
nhập Trường Sa vào với Nam Kỳ, và sau đó công nhận rằng Nam Kỳ là của
Việt Nam: đó cũng là một chứng minh từ lịch sử rằng Trường Sa là của
Việt Nam.
Thật ra tuyên bố chủ quyền của Pháp không chỉ là với 6 đảo được nêu
tên, mà là với quần đảo Trường Sa trong đó có 6 đảo được nêu tên. Như
vậy không thể dựa trên “chỉ ghi được 6 địa danh” để suy diễn gì, mà phải xét xem vào thời kỳ đó “quần đảo Trường Sa”
được cho là bao gồm những gì, và theo Pháp thì “quần đảo Trường Sa”
được cho là bao gồm những gì. Từ đó mới có thể suy ra tuyên bố chủ quyền
của Pháp bao gồm những gì.
Và vấn đề quan trọng ở đây là khi bắt đầu đàm phán hay ra tòa mình
phải nói là của mình. Không có gì sai với cách tiếp cận đó, miễn mình
công nhận là có tranh chấp, mình không dùng bạo lực, không khăng khăng
từ chối ra tòa, không khăng khăng bác bỏ đàm phán. Điều đúng đắn không
phải là tự bỏ quan điểm của mình từ đầu, mà là
- Không dùng vũ lực.
- Chấp nhận và kêu gọi việc ra tòa. Khi ra tòa thì mình phải nói là của mình, nhưng nếu tòa kết luận rằng mình có zero, 1, 2, 3, ..., hay tất cả các đảo/đá thì mìn cũng đều tuân thủ.
- Chấp nhận và kêu gọi đàm phán về chủ quyền đảo/đá. Khi bắt đầu đàm phán thì mình phải nói là của mình, nhưng khi đàm phán thì mình phải tôn trọng lý lẽ công bằng, và sẵn sàng nhượng bộ, có khi vì sự công bằng, có khi vì một sự trao đổi nào đó có lợi ích cho đất nước.
Nếu tiếp cận với ba nguyên tắc trên thì không có gì là tiểu bá; đó là
một cách tiếp cận vừa phải, văn minh mà nhiều nước trên thế giới áp
dụng trong tranh chấp lãnh thổ. Ngược lại, nếu chưa ra tòa, chưa vào đàm
phám mà đã công nhận “lịch sử không chứng minh được Trường Sa là
thuộc Việt Nam; Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở đây là vùng đất vô
chủ (và chỉ ghi được 6 địa danh trong hàng vài chục địa danh)” thì
là tự bắn vào chân mình, trong khi thực tế và các tiêu chuẩn của sự ôn
hòa, hòa bình, văn minh không đòi hỏi phải tự bắn như thế.
Ngoài ra nếu mình tự nhận “lịch sử không chứng minh được Trường
Sa là thuộc Việt Nam; Pháp tuyên bố chủ quyền trên cơ sở đây là vùng đất
vô chủ (và chỉ ghi được 6 địa danh trong hàng vài chục địa danh)”
trước thì Trung Quốc sẽ là nước hưởng lợi nhất. Trung Quốc sẽ nói vậy
thì trước nhất Việt Nam không được tranh chấp đảo/đá x, y, z, vv, với
Trung Quốc.
Cho nên tôi xin nêu lại vài đề nghị mà tôi đã trình bày trong một bài viết trước đây của tôi cũng như đã viết cho bộ ngoại giao, để nếu như không tạo được sự đoàn kết của cả ASEAN thì ít nhất có 4 nước lãnh xướng (để có hậu thuẫn của ít nhất Indonesia và Singapore):
1. Mọi nước trong nhóm nước 4 nước thuộc khối ASEAN có tranh chấp ở Trường Sa đồng ý là các kết cấu tự nhiên ở đây chỉ là đá chứ không phải đảo. Như vậy ai làm chủ các hòn đá thì chỉ có lãnh hải 12 hải lý. Điều này sẽ là cơ sở cho việc Hoàng Sa chỉ có lãnh hải 12 hải lý (dù ai chiếm giữ).
Đề nghị (1) cũng hợp lý và cũng tốt, và nhiều tác giả cũng đã đề nghị như thế trước bài viết năm 2010 của TS Vũ Quang Việt.
2. Việt Nam cũng nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei và Mã Lai.
Đây là một đề nghị hoàn toàn sai lầm. Với đề nghị (1), “các kết cấu tự nhiên ở đây chỉ là đá chứ không phải đảo”, nếu thêm đề nghị (2) thì có thể thấy trên bản đồ rằng Việt Nam sẽ chỉ còn một phần nhỏ của các đảo/đá/đá Trường Sa.
Đề nghị đó cũng không phù hợp với luật quốc tế. Theo luật quốc tế thì
chủ quyền đối với đảo/đá và đá trên mức thủy triều cao lệ thuộc vào
lịch sử xác lập chủ quyền, không lệ thuộc vào đảo/đá đó nằm trong EEZ
của nước nào.
Đề nghị đó cũng không cần thiết. Giả sử như đề nghị (1) được công
nhận thì hệ quả của nó là Việt Nam sẽ không đòi những gì cách đảo/đá
(trên mức thủy triều cao) hơn 12 hải lý. Điều đó có nghĩa tất cả các bãi
ngầm, bãi cạn, bãi và rạn đá lúc nổi lúc chìm, đáy biển, cột nước trong
EEZ của Philippines, Malaysia và Brunei cách đảo/đá (trên mức thủy
triều cao) hơn 12 hải lý sẽ thuộc về các nước này. Như vậy là khá nhiều
rồi. Giả sử như có đàm phán (và đàm phán về chủ quyền đối với các đảo/đá
sẽ phải bao gồm Trung Quốc), cũng có thể họ sẽ chấp nhận như thế, cũng
có thể họ sẽ đòi thêm một số đảo/đá nữa, và họ sẽ được gì, ta sẽ được
gì, sẽ là kết quả của đàm phán. Không việc gì phải đương nhiên “từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei và Mã Lai”.
Như vậy, sẽ là sai lầm nếu ta chưa đàm phán mà đã tặng thêm họ đề
nghị (2). Đề nghị (1) là đủ để bắt đầu đàm phán rồi. Trong đàm phán, các
nước kia có thể đòi nhiều hơn, nhưng chưa đàm phán mà đã tặng họ đề
nghị (2) thì là không cần thiết và dại dột.
3. Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền của nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.
Đề nghị này mâu thuẫn với đề nghị (2), vì có những đơn vị Việt Nam đang giữ nằm trong EEZ của Philippines và Malaysia.
Và nó cũng không cần thiết. Hiện nay Việt Nam, Philippines, Malaysia
và Brunei chỉ cần biện pháp tạm thời là công nhận sự chiếm giữ de facto
của nhau và cam kết không dùng vũ lực để giành đảo/đá của nhau là được
rồi. Hiện nay chưa cần công nhận chủ quyền pháp lý của nhau trên những
đảo/đá đang chiếm giữ.
4. Với sự đồng ý ở trên, 4-5 nước ASEAN có thể yêu cầu Toà hoà giải Luật biển phán quyết là các cấu trúc thiên nhiên ở Biển ĐNA lớn nhất chỉ có thể là đá. (Trung Quốc không có quyền cản vụ này).
TS Vũ Quang Việt có thể cho biết tại sao cần điểm (2) (“Việt Nam cũng
nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei
và Mã Lai.”) và (3) (“Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền của
nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.”) thì mới có thể “yêu cầu Toà hoà
giải Luật biển phán quyết là các cấu trúc thiên nhiên ở Biển ĐNA lớn
nhất chỉ có thể là đá”?
Điều đó không chính xác. Rõ ràng là chỉ cần đồng ý về điểm (1) để có
thể ra tòa. Điểm (2), (3) hoàn toàn không cần thiết cho việc ra tòa.
Ngoài ra, chúng lại còn không phù hợp với luật quốc tế, và chắn là tòa
sẽ bác bỏ bất cứ gì dựa trên hai điểm đó. Không những thế, điểm (2) là
rất bất lợi cho Việt Nam, điểm (3) thì mâu thuẫn với điểm (2).
Trên thực tế, đơn kiện của Philippines dựa nhiều trên quan điểm
Trường Sa không có vùng đặc quyền kinh tế, và họ không cần tới đề nghị
(2) và (3) của TS Vũ Quang Việt.
Như vậy, có thể giữ điểm (1), nhưng điểm (2) và (3) thì trong giai
đoạn này chỉ nên gác chúng sang một bên, Việc từ bỏ đòi chủ quyền đối
với đảo/đá, nếu có, mà chỉ có thể là do phán quyết của tòa, hoặc là do
kết quả của đàm phán, không nên là tiên đề.
Tôi nghĩ đã đến lúc chính phủ Việt Nam phải chủ động đưa ra sáng kiến giải quyết vấn đề trong tranh chấp ở nội bộ ASEAN, tạo cái khung cho giải pháp trong tương lai với Trung Quốc nếu có.
Vũ Quang Việt
Đúng vậy, nhưng những sáng đề nghị (2) và đề nghị (3) của TS Vũ Quang
Việt không phải là sáng kiến thích hợp cho hoàn cảnh hiện nay.
Kết luận
Đúng là ASEAN bị chia rẽ, nhưng đó là vì nhiều lý do, không phải chỉ
vì tranh chấp đảo/đá ở Trường Sa. Đề nghị (2) và (3) của TS Vũ Quang
Việt,
2. Việt Nam cũng nên từ bỏ việc đòi chủ quyền các bãi/đá nằm trong EEZ của Phi, Brunei và Mã Lai.
3. Việt Nam và các nước nên công nhận chủ quyền của nhau trên các đá hiện đang chiếm giữ.
không phải là cách có giá trị nhất cũng như không phải là cách cần
thiết để giải quyết sự chia rẽ đó, mà cũng không phải là cách hợp lý hay
khả thì để giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với các đảo/đá.
Trong vấn đề chủ quyền đối với đảo/đá, hiện nay Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei chỉ cần công nhận sự chiếm giữ de facto của nhau và cam đoan không dùng vũ lực để giành đảo/đá của nhau. Như vậy là đủ rồi Chưa cần công nhận chủ quyền pháp lý của nhau. Thí dụ, như như vậy là đủ cho Philippines và Việt Nam đoàn kết với nhau, và cho VIệt Nam và Malaysia hợp tác với nhau.
Trong vấn đề chủ quyền đối với đảo/đá, hiện nay Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei chỉ cần công nhận sự chiếm giữ de facto của nhau và cam đoan không dùng vũ lực để giành đảo/đá của nhau. Như vậy là đủ rồi Chưa cần công nhận chủ quyền pháp lý của nhau. Thí dụ, như như vậy là đủ cho Philippines và Việt Nam đoàn kết với nhau, và cho VIệt Nam và Malaysia hợp tác với nhau.
Đúng là Việt Nam và các nước trong tranh chấp cần có đột phá, nhưng
đột phá đó không nên như trong đề nghị (2), (3) của TS Vũ Quang Việt, mà
có thể bao gồm những biện pháp như các thí dụ sau:
- Cùng đồng ý đưa tranh chấp chủ quyền đối với đảo/đá ra tòa, và cùng gây áp lực thách Trung Quốc ra tòa.
- Cùng đồng ý rằng Trường Sa không có EEZ, và cùng yêu cầu tòa công nhận, hoặc cùng đồng ý một phạm vi EEZ nào đó để khoanh vùng vùng tranh chấp và cùng gây áp lực lên Trung Quốc, cùng thách Trung Quốc chấp nhận cho tòa khoanh vùng vùng tranh chấp.
Như vậy sẽ đem lại phần lớn những lợi ích có thể mong muốn. Để Việt
Nam, Philippines, Malaysia và Brunei đoàn kết hơn, cần thực hiện những
biện pháp dễ, cần thiết và có nhiều lợi ích nhất trước. Hai đề nghị (2),
(3) TS Vũ Quang Việt không phải là thiết yếu (vì có thể xây dựng đoàn
kết bằng những cách khác), không có nhiều giá trị (vì có những vấn đề
khác gây chia rẽ lớn hơn), không khả thi (vì các nước ASEAN không thể
giải quyết vấn đề chủ quyền đối với đảo với nhau bỏ qua Trung Quốc và
Đài Loan), có vẻ chưa chín, và nên được tạm gác sang một bên trong hoàn
cảnh hiện nay.