Năm 1979 Bắc Kinh đã phủ lên láng
giềng phía Nam của họ một cuộc chiến dữ dội. Và ngay từ thời đó thì đã
là vì biên giới rồi, những đường biên giới mà các thế lực Phương Tây đã
ép buộc Trung Quốc trong các “hiệp ước bất bình đẳng”
Berthold Seewald
Phan Ba dịch từ báo Thế Giới [Die Welt]
Cùng hướng
tới các học thuyết của Marx và Lênin không ngăn cản các quốc gia dùng
bạo lực tấn công nhau, điều này đang được Trung Quốc và Việt Nam chứng
minh trong những ngày này. Đã có nhiều người chết trong những cuộc bạo
động chống nhà máy Trung Quốc ở Việt Nam, và tờ “Toàn Cầu Thời Báo”
Trung Quốc thân với chính phủ đe dọa là nước này cũng có thể dùng tới
những “biện pháp không hòa bình”, nếu như các cuộc biểu tình chống Trung
Quốc khoan dầu ở Biển Đông trở thành quá khích.
Đó không phải la những lời đe dọa suông,
điều này thì đã được hai nước chứng minh trước đây 35 năm. Thời đó,
nhiều trăm ngàn lính Trung Quốc tấn công miền Bắc Việt Nam. Người ta cho
rằng 80.000 người đã tử trận hay bị thương chỉ trong vòng vài tuần.
Nguyên cớ cho cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba, như cuộc Chiến
tranh Việt – Trung thỉnh thoảng cũng được gọi như vậy, thêm một lần nữa
là những cuộc tranh cãi biên giới. Nguyên nhân của chúng lại nằm trong
các “hiệp ước bất bình đẳng” mà các thế lực nước ngoài đã ép buộc đế chế
Trung Quốc trong thế kỷ 19. Qua đó, tranh cãi giữa Trung Quốc và Việt
Nam có thể so sánh được với xung đột vì các hòn đảo không người sinh
sống Senkaku hay Điếu Ngư ở biển Hoa Đông, những hòn đảo mà Nhật Bản đã
giành lấy từ láng giềng to lớn sau chiến thắng năm 1895 của họ.
Cả hai trường hợp này là những ví dụ rất
tốt cho việc Trung Quốc hiện đại dùng lịch sử của họ như là một sức mạnh
nhận dạng như thế nào. Trong trường hợp của Việt Nam thì đó là kết quả
của cuộc Chiến tranh Thuốc phiện lần thứ nhì. Năm 1856, Liên hiệp Anh
lợi dụng một hành động của cảnh sát Trung Quốc chống một con tàu dưới lá
cờ Anh để gởi Hải quân Hoàng gia chống lại đất nước của hoàng đế. Nước
Pháp dưới Napoleon III cũng tham gia.
Năm 1858, tàu chiến Phương Tây chiếm và
phá hủy nhiều pháo đài. Trong Hiệp ước Thiên Tân, Trung Quốc phải mở cửa
mười cảng cho những người chiến thắng, bảo đảm tự đo đi lại cho người
ngoại quốc, bồi thường và hợp thức hóa việc buôn bán thuốc phiện. Khi
hoàng đế từ chối không ký tên vào hiệp ước, một đoàn quân viễn chinh của
đồng minh đã phá hủy dinh mùa hè tuyệt đẹp ở đông bắc Bắc Kinh. Nhà văn
Victor Hugo cay đắng ghi nhận: “Một ngày nào đó, hai tên cướp xông vào
dinh thự mùa hè. Một tên cướp bóc, tên kia phóng hỏa… Chúng ta người
châu Âu là văn minh, đối với chúng ta người Trung Quốc là dân man rợ:
Thế đấy, nền văn minh đã làm điều đó với dân man rợ.”
Hiệp ước Hữu nghị với Pol Pot
Hiệp ước Thiên Tân là một dấu mốc trong
sự sụp đổ hệ thống triều cống mà với nó Trung Quốc đã trói buộc các quốc
gia láng giềng vào vũ trụ của nó. Qua triều cống – tượng trưng – những
người đang trị vì Việt Nam công nhận quyền tối cao của hoàng đế. Bây
giờ thì người Pháp bắt đầu không chỉ mang miền Nam của “Đông Dương” vào
vòng kiểm soát của họ mà cũng thâm nhập ra miền Bắc, Bắc Bộ. Trong nhiều
bước, Trung Quốc buộc phải chấp nhận đường biên giới mà các thế lực
thuộc địa ép buộc.
Lần chia biên giới đó đã dẫn tới xung đột
vũ trang năm 1979. Trong các cuộc chiến chống Pháp (cho tới 1965) và
Hoa Kỳ với đồng minh của nó (cho tới 1975) nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đã hỗ trợ rất nhiều cho chính quyền Bắc Việt. Điều đó đột ngột thay
đổi, khi Việt Nam, dựa trên liên minh với Liên bang Xô viết, can thiệp
vào Campuchia năm 1979 và lật đổ chế độ độc tài thời Đồ Đá của Khmer Đỏ.
Những người này là đồng minh của Bắc
Kinh. Ở đó, người ta hiểu lần mở rộng vùng ảnh hưởng của Việt Nam này là
một cố gắng bao vây của Xô viết ở phía Nam và tức giận phản ứng. Một
hiệp ước hữu nghị được ký kết với chế độ Pol Pot đang chao đảo. Và Việt
Nam bị tấn công vì liên tục xâm phạm biên giới. Trong khi Trung Quốc đưa
ra 3535 vụ việc thì dân tộc cộng sản anh em thù địch trả đũa với 2158
“lần khiêu khích”.
Vào ngày 17 tháng Hai, quân đội Trung
Quốc tấn công. Tròn 200.000 người, được yểm trợ bởi nhiều xe tăng và
máy bay chiến đấu, thâm nhập vào đất Việt nam sâu có cho tới 40 kilômét.
Những người chiến đấu bảo vệ đã làm việc mà họ đã từng làm trong những
cuộc chiến tranh thắng lợi chống các cường quốc Phương Tây: họ lui về
các hệ thống phòng thủ trong rừng rậm và kháng chiến linh hoạt.
Chiếm hữu vì tài nguyên
Mặc dù phần lớn lực lượng Việt Nam còn
đang hoạt động ở Campuchia và miền Nam, người Trung Quốc vẫn không đạt
được một chiến thắng vinh quang. Còn ngược lại. Peter Scholl-Latour
trong quyển sách bán chạy của ông “Der Tod im Reisfeld” ["Cái chết trên
ruộng lúa"] (1980) đã mô tả lại sức chiến đấu của người Việt Nam. Vào
ngày 16 tháng Ba, “cú đánh trả thù”, như sử gia Kai Vogelsang phỏng đoán
chiến dịch này, chấm dứt. Cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng. Ước
lượng của các nhà quan sát, mà theo đó các đối thủ đã mất mỗi bên tròn
40.000 người, nói về một bất phân thắng bại – không làm cho cường quốc
Trung Hoa hài lòng.
Sau đó, hai chính quyền đã có thể dàn xếp
được các tranh cãi biên giới của họ, ít nhất là đối với đường biên giới
trong rừng rậm trên đất liền. Tuy vậy, cuộc tranh cãi vì các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa trước bờ biển nhiều trăm kilômét vẫn tiếp tục. Vào
lúc ban đầu, nước Pháp đã trao các hòn đảo lại cho đế chế, nhưng sau đó
lại thôn tính chúng.
Với những lập luận lịch sử, cả Malaysia,
Đài Loan, Brunei và Philippines cũng tuyên bố chủ quyền nhóm các hòn đảo
bé tí đó, trước hết như là danh hiệu sở hữu cho tài nguyên ở dưới đáy
biển. Không phải bỗng dưng mà những người biểu tình ở thủ đô Manila của
Philippines đã yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành động “gây rối” ở
biển Đông sau các cuộc bạo loạn tại Việt Nam.
Trong khi đó Trung Quốc dường như đang
kiên quyết xác định vị thế quyền lực mới của họ cùng với việc xét lại
các “hiệp ước bất bình đẳng” và các hậu quả rắc rối của chúng. Đã từ
lâu, xã hội cộng sản phát triển không còn là mục tiêu của ĐCS nữa, mà là
“xã hội hài hòa”, như nhà tư tưởng thời xưa Khổng Tử đã giảng dạy: như
là “là khái niệm tư tưởng dẫn đầu của sự thống trị tuyệt đối” (Kai
Vogelsang) cho đối nội và – càng nhiều càng tốt – cho đối ngoại.
Berthold Seewald
Phan Ba dịch từ báo Thế giới [Die Weilt]: