Nguyễn Gia Kiểng
“…Những cuộc chiến tranh chống xâm lăng cũng chỉ có mục đích thay thế một chế độ nô lệ ngoại bang bằng một chế độ nô lệ bản xứ. Chúng ta chưa bao giờ là một dân tộc tự do. Ngày nay chúng ta đang đứng trước hy vọng bước vào giai đoạn thứ hai của lịch sử, giai đoạn của một nước Việt Nam dân chủ và của những con người Việt Nam tự do…”
Nhân kỷ niệm 39 năm ngày 30 tháng 4
Thảm kịch của Việt Nam có một tên gọi và một nguyên nhân. Tên
gọi đó là chế độ cộng sản, nguyên nhân đó là vì Đảng Cộng sản Việt Nam
đã thắng. Ngày nay không còn một người Việt Nam lương thiện nào có thể
chối cãi rằng nếu không có ĐCSVN thì ngày nay đất nước đã khá hơn nhiều
rồi. Không mất Bản Giốc, Nam Quan, Trường Sa, Hoàng Sa và cũng không làm
hơn năm triệu người thiệt mạng. Đảng cộng sản là một tai họa.
Một lần nữa, lần thứ 39, chúng ta kỷ niệm ngày 30/4/1975, ngày đất nước chấm dứt nội chiến và thống nhất.
Rất nhiều điều đã được nói và viết ra về cuộc chiến này, tuy vậy
người ta sẽ không bao giờ nói hết được những điều cần nói. Cuộc chiến
này quá phức tạp. Nó là cuộc chiến tranh lớn nhất và gây nhiều đổ vỡ
nhất trong lịch sử nước ta. Người ta sẽ còn phải nói nhiều về nó. Bài
này chỉ có tham vọng nói lên một vài điều mà theo nhận định chủ quan của
tác giả đáng được lưu ý nhất vào thời điểm này.
1. Trước hết cần khẳng định rằng đây là một cuộc nội chiến. Trong
suốt cuộc chiến và sau đó Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn rêu rao rằng đây là
cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, hay "chống Mỹ", và luận điệu này, do
được lặp đi lặp lại quá nhiều lần, vẫn còn tiềm ẩn trong đầu óc nhiều
người. Một thí dụ là người ta đôi khi vẫn còn nhắc lại câu nói được coi
"ân tình" và "sáng suốt" của các cấp lãnh đạo cộng sản tiếp thu miền Nam
năm 1975: "Không có người Việt Nam nào thua trận cả, mọi người Việt Nam đều thắng, chỉ có đế quốc Mỹ thua".
Người ta nhắc lại để tôn vinh những con người như các ông Võ Văn Kiệt,
Trần Văn Trà v.v… Thực ra đây là câu nói đã được học tập và được nói ra
bởi mọi cán bộ cao cấp, đã được nghe nhiều lần từ nhiều người. Một câu
nói sai và thóa mạ. Nó chỉ nhắc lại lập luận ngạo mạn của ĐCSVN rằng họ
là toàn dân trong khi trước mặt họ chỉ có những tay sai của Mỹ. Cần dứt
khoát: khi người trong một nước giết nhau trên một qui mô lớn và trong
một thời gian dài thì đó là nội chiến, dù có hay không có sự can thiệp
từ bên ngoài. Vả lại, không phải chỉ có miền Nam dựa vào Mỹ mà miền Bắc
cũng đã nhận một khối lượng viện trợ khổng lồ từ các nước cộng sản anh
em, nhất là Liên Xô và Trung Quốc; viện trợ này còn đều đặn và bền bỉ
hơn hẳn viện trợ của Mỹ cho miền Nam và đó đã là lý do chính của chiến
thắng cộng sản. Sau này người ta cũng được biết là cũng đã có hàng trăm
ngàn quân Trung Quốc và cố vấn Liên Xô tại miền Bắc. Miền Bắc thực ra
còn lệ thuộc nước ngoài hơn hẳn miền Nam; họ phải ca tụng Liên Xô và
Trung Quốc là anh cả, anh hai, là vĩ đại, phải khóc Stalin hơn cả khóc
cha. Chính ông Hồ Chí Minh cũng không ngăn nổi vụ xử bắn bà Nguyễn Thị
Năm - một người mẹ chiến sĩ rất có công - chỉ vì cố vấn Trung Quốc đã lỡ
quyết định như thế, v.v… Và cũng không phải là toàn dân ủng hộ họ bởi
vì những người bỏ trốn chế độ cộng sản bao giờ cũng đông đảo hơn hẳn
những người tìm đến với nó. Câu nói: "Nếu bỏ đi được thì cái cột đèn cũng đi"
không phải của các thế lực thù địch mà là của dân gian. Cần khẳng định
mạnh mẽ và dứt khoát bản chất nội chiến của cuộc chiến này.
Trừ ra trong đầu óc của những người quá tăm tối không có cuộc nội
chiến nào vinh quang cả. Tất cả mọi cuộc nội chiến đều ô nhục và độc
hại. Chúng đều có thể tóm lược như nhau: một dân tộc không đồng ý với
nhau và thay vì cố gắng thỏa hiệp đã giết nhau. Chọn nội chiến là thú
nhận không thể thuyết phục, vì thiếu lý luận hoặc vì thiếu lý do chính
đáng. Đó là chọn thái độ thù địch và xóa bỏ tình đồng bào. Trong một bài
trước tôi đã trình bày sức tàn phá ghê gớm của các cuộc nội chiến, nhất
là những cuộc nội chiến do các đảng cộng sản phát động (1). Ở đây chỉ
xin nhắc lại rằng ít có quốc gia nào gượng dậy nổi sau một cuộc nội
chiến. Những người chủ trương nội chiến có tội lớn và phải bị lên án.
2. Điểm thứ hai là sức mạnh của các đảng cộng sản,
kể cả ĐCSVN, không phải là hậu thuẫn quần chúng mà là vì chúng có tổ
chức chặt chẽ và hơn thế nữa chúng là những tổ chức khủng bố.
Không nên để cho những khẩu hiệu sống sượng kiểu "Đảng ta là người đại diện trung thành của nhân dân…" làm
quên đi một sự kiện căn bản là trong lịch sử thế giới chưa hề có một
đảng cộng sản nào giành được thắng lợi trong một cuộc bầu cử lương thiện
nào. Tất cả mọi đảng cộng sản đều đã chỉ cướp và giữ chính quyền bằng
bạo lực. Tất cả những ai đọc Lênin đều thấy rằng đối với ông ta bí quyết
thành công để cướp chính quyền là một đội ngũ nhỏ nhưng có kỷ luật và
quyết tâm. Phương châm của các đảng cộng sản là "cứu cánh biện minh cho mọi
phương tiện", phương pháp của chúng là khủng bố. Khủng bố có hiệu lực
ghê gớm là nó không từ một thủ đoạn hay một tội ác nào và vì thế cho
phép một lực lượng nhỏ đánh bại hoặc cầm chân một lực lượng nhiều lần
mạnh hơn. Nó cũng gây kinh hoàng tới độ biến mọi người trở thành những
đồng lõa thụ động và sự im lặng này được bộ máy tuyên truyền tô vẽ như
một sự đồng tình. Nhưng những đám đông của những cuộc hành quyết trong
đợt Cải Cách Ruộng Đất 1955 đã đến vì sợ hãi và vì bị bắt buộc phải đến
chứ không phải vì căm thù các nạn nhân. Sau năm 1975 tôi đã gặp nhiều
trí thức miền Bắc trong đó có những người có tên tuổi. Trong câu chuyện
riêng họ kể những chuyện khó tưởng tượng. Tại sao họ không phản đối? Câu
trả lời luôn luôn ngắn gọn: "Phản đối là chết ngay, chỉ tỏ ra không tán
thành cũng đủ mắc họa rồi". Thế nhưng sau đó Đảng cũng đã nhìn nhận sai
lầm cơ mà? "Đó là cái bẫy, ngây thơ tưởng thực là chết, các ông bà Nhân
Văn – Giai Phẩm đã là nạn nhân của cái bẫy này". Chỉ gần đây thôi thế
giới mới nhận diện được và lên án bản chất tội ác của khủng bố; cho tới
thập niên 1970 nó còn sức quyến rũ với rất nhiều trí thức và họ đã tiếp
tay cổ võ cho nó. Khủng bố đã là lý do khiến ĐCSVN dù đã phạm nhiều tội
ác và sai lầm vẫn trụ được và sau cùng chiến thắng khi đối thủ mệt mỏi
và bỏ cuộc.
3. Điểm thứ ba, đặc biệt quan trọng, là đảng cộng sản đã thành công vì Việt Nam thiếu một lớp trí thức chính trị.
Một nghịch lý lớn vẫn còn cần được nhìn rõ là tại sao vào thời điểm
1945 và nhiều năm sau đó tổ chức được trí thức ủng hộ nhiều nhất - nhiều
nhất so với các tổ chức khác chứ không phải là đa số trí thức - lại là
đảng cộng sản, một đảng theo đuổi một chủ nghĩa mà mục tiêu sau cùng là
xóa bỏ quốc gia? Giải thích chỉ có thể là vì ý thức quốc gia của chúng
ta không mạnh, và ý thức quốc gia của chúng ta không mạnh vì chúng ta
thiếu một lớp trí thức chính trị.
Một thắc mắc vẫn còn kéo dài cho đến nay là phe quốc gia - hiểu theo
nghĩa rộng là tập thể những người không cộng sản - đáng lẽ không thể
thua vì nhận sự có trình độ văn hóa cao hơn hẳn các cấp lãnh đạo cộng
sản. Thắc mắc này chỉ là một ngộ nhận. Sự thực là các cấp lãnh đạo cộng
sản hơn hẳn những người chống lại họ. Lý do là vì hơn hay kém trong một
cuôc đấu tranh chính trị phải được xét trên khả năng chính trị mà trí
thức Việt Nam không có. Các ông bộ trưởng, giám đốc của các chính quyền
quốc gia và các trí thức bị ngược đãi tại miền Bắc có thể có nhiều bằng
cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ nhưng họ chỉ là những nhà khoa bảng chứ không
phải là những trí thức chính trị, cùng lắm họ có những hiểu biết chuyên
môn chứ không có kiến thức chính trị. Họ có thể biết một chế độ dân chủ
phải có ba quyền phân lập, Washington là tổng thống đầu tiên của nước
Mỹ, Galilée đã khám phá ra rằng trái đất xoay quanh mặt trời v.v. nhưng
đó không phải là những kiến thức chính trị. Kiến thức chính trị là thành
quả của một cố gắng nghiên cứu và suy nghĩ nghiêm túc để trả lời những
câu hỏi như bộ máy chính quyền có mục đích gì, có thể và nên được tổ
chức như thế nào, là sự hiểu biết sâu sắc về những giá trị nền tảng của
xã hội, về những gì làm cho một quốc gia phát triển hoặc suy thoái, đoàn
kết hay xung đột, về cách tổ chức các hoạt động quốc gia trong mọi
ngành một cách hiệu quả và đồng bộ, về cách chia sẻ đúng đắn những hy
sinh và những thành quả v.v. Quan trọng hơn nữa, ở mỗi thời điểm nó đòi
hỏi sự hiểu biết chính xác hiện tình đất nước và bối cảnh thế giới,
những vấn đề đang hoặc sắp đặt ra và những giải pháp có thể có. Kiến
thức chính trị bao gồm mọi loại kiến thức cộng với những kiến thức được
coi là thuần túy chính trị, hơn nữa nó lại phải luôn luôn được kiểm
chứng bởi thực tế vì thế một cá nhân dù trải qua bao nhiêu năm nghiên
cứu, suy tư và hành động cũng không thể nào có đủ, nó luôn luôn phải là
kiến thức của một khối người: những trí thức chính trị.
Chúng ta đang sống một thảm kịch lớn. Nước ta tut hậu một cách bi
đát về mọi mặt so với thế giới. GDP (sản lượng nội địa) của chúng ta
(1500 USD dù ước lượng rộng rãi) chỉ bằng 15% mức trung bình thế giới.
Nếu giả thử chúng ta tăng trưởng nhanh hơn các nước đang trỗi dậy 2% mỗi
năm -một điều không có gì bảo đảm vì thực tế là các nước này đang tiến
lên và chúng ta đang đi vào khủng hoảng- thì cũng phải một trăm năm nữa
chúng ta mới bắt kịp mức trung bình thế giới. Chúng ta là nước đông dân
thứ 13 trên thế giới nhưng không có bất cứ một thành tích nào đáng kể
trên bất cứ địa hạt nào dù là công nghiệp, khoa học, văn hóa, nghệ thuật
hay thể thao. Chúng ta là một nước không đáng kể. Tủi nhục nhất là
chúng ta vẫn chưa có dân chủ, nghĩa là vẫn chưa có đủ quyền con người.
Thảm kịch đó có một tên gọi và một nguyên nhân. Tên gọi đó là chế độ
cộng sản, nguyên nhân đó là vì Đảng Cộng sản Việt Nam đã thắng. Ngày nay
không còn một người Việt Nam lương thiện nào có thể chối cãi rằng nếu
không có ĐCSVN thì ngày nay đất nước đã khá hơn nhiều rồi, tệ lắm cũng
phải bằng năm hay sáu lần hiện nay. Không mất Bản Giốc, Nam Quan, Trường
Sa, Hoàng Sa và cũng không làm hơn năm triệu người thiệt mạng. Đảng
cộng sản là một tai họa.
Nhưng tại sao nó đã thắng? Chiến thắng của đảng cộng sản rất không
bình thường. Nó đã liên tục phạm những tội ác kinh khủng và sai lầm
nghiêm trọng về mọi mặt mà vẫn trụ được và sau cùng toàn thắng. Trong
bất cứ một quốc gia bình thường nào một lực lượng như vậy đã thất bại
thê thảm rồi. Nhưng nó đã thắng chỉ vì trước mặt nó không có một tổ chức
chính trị đúng nghĩa nào mà chỉ có một guồng máy chính quyền được điều
khiển bởi những người vừa không có khả năng vừa không có đội ngũ kế tiếp
nhau cầm quyền trong một thời gian. Đảng cộng sản đã thắng chỉ vì không
có ai để đánh bại nó.
Thảm kịch của đất nước thường được giải thích là vì dân trí ta kém.
Đó là một giải thích vừa sai vừa không luơng thiện. Đó là đổ cho quần
chúng một tội lớn của trí thức. Dân tộc nào nói chung cũng vậy thôi, họ
chủ yếu quan tâm tới bản thân, gia đình và cuộc sống hàng ngày. Nghĩ về
đất nước, lo lắng cho đất nước, hiểu và giải quyết những vấn đề của đất
nước là công việc của tầng lớp trí thức chính trị. Người dân Việt Nam
cũng thế và trình độ hiểu biết của dân ta còn hơn hẳn nhiều dân tộc khác
vào lúc mà họ xây dựng thành công dân chủ. Thảm kịch của chúng ta là
chúng ta đã thiếu những trí thức chính trị, những người có kiến thức
chính trị, dám suy nghĩ và quyết định, có quyết tâm và sẵn sàng phấn đấu
để đất nước được quản trị một cách hợp lý. Chúng ta đã không có những
trí thức chính trị, những người mà vai trò và trách nhiệm là hướng dẫn
quần chúng và lãnh đạo xã hội.
Trí thức của ta là hậu duệ của giai cấp sĩ, những người mà mộng đời
chỉ là được làm quan, nghĩa là làm công cụ cho các vua chúa để thống trị
dân chúng. Và tâm lý kẻ sĩ vẫn còn rất mạnh, với đa số trí thức ngày
nay làm chính trị vẫn còn đồng nghĩa với cố gắng để được làm quan. Cũng
cần lưu ý rằng ý thức chính trị của kẻ sĩ ngày xưa không cao hơn mà còn
thấp hơn ý thức chính trị của quần chúng. Trong xã hội ta trước đây có
hai loại người có ý thức chính trị, những người lấy những quyết định
chính trị –các vua chúa - và những người chịu đựng những quyết định đó,
nghĩa là quần chúng. Kẻ sĩ chỉ là công cụ, và những công cụ không có ý
thức. Giữa Lê Lợi và Nguyễn Trãi có một khoảng cách lớn. Lê Lợi là một
con người tự do và lấy quyết định, Nguyễn Trãi chỉ là một bầy tôi và một
dụng cụ. Di sản kẻ sĩ đã khiến trí thức Việt Nam cho đến nay dù đã học
được nhiều kiến thức mới vẫn chỉ có khả năng làm những công cụ. Họ cần
một minh chủ, nhưng thời đại của các minh chủ đã qua rồi, vì thế họ bơ
vơ và lạc lõng.
Chính sự thiếu vắng một lớp trí thực chính trị đã cho phép đảng cộng
sản thắng và đưa đất nước vào tai họa. Cũng chính sự thiếu vắng một lớp
trí thức chính trị đã khiến chế độ này sau đó vẫn còn tồn tại được
trong 39 năm qua.
4. Điểm thứ tư là đừng nên tiếc rằng ngày 30/4/1975
đã là một cơ hội lớn bị bỏ lỡ. Đúng là trong bối cảnh tồi tệ của một
cuộc nội chiến dài và đẫm máu, ngày 30/4/1975 đã là một cơ hội. Nội
chiến đã không chấm dứt trong biển máu. Hai đạo quân trên một triệu
người đã không tàn sát nhau lần cuối, một bên đã buông súng. Đó đã là cơ
hội lý tưởng để thực hiện hòa giải dân tộc để đất nước gượng dậy và
vươn tới. Cơ hội này đã lỡ uổng vì những người cầm đầu phe chiến thắng
–cũng là những người chủ trương nội chiến đến cùng- đã coi nội chiến là
vinh quang và thần thánh thay vì ô nhục và độc hại. Họ đã đặt chủ nghĩa
lên trên đất nước và đã đối xử với miền Nam như một lực lượng chiếm
đóng.
Đúng, nhưng không thể khác. Đảng cộng sản là một tổ chức khủng bố và
chỉ có thể hành động theo logic của một tổ chức khủng bố, nghĩa là làm
những gì họ đã làm. Thực hiện hòa giải dân tộc và xây dựng dân chủ không
nằm trong tâm lý của họ. Dĩ nhiên cũng có những người có thiện chí
nhưng họ chỉ là những cấp lãnh đạo cỡ trung bình không có vai trò quyết
định. Các cấp lãnh đạo cộng sản cao nhất đều là những lãnh tụ khủng bố.
Một thí dụ là ông Võ Văn Kiệt mà nhiều người thường nhắc đến như một con
người cởi mở và bao dung. Đừng quên rằng chính ông Kiệt trong thời gian
cầm đầu công an miền Nam –trong chức vụ chính thức là giám đốc sở công
an Thành Phố Hồ Chí Minh- đã lập ra Đảng Việt Nam Phục Quốc để làm bẫy
bắt và tiêu diệt những thành phần, đa số là thanh niên, có ý đồ chống
đối. Nhiều người đã bị xử bắn. Cũng chính ông Kiệt trong thời gian làm
bí thư thành ủy đã cho đập phá nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nghĩa trang của
gia đình nhiều chức sắc Việt Nam Cộng Hòa.
Những sự kiện sau ngày 30/4/1975 đã xảy ra như chúng phải xảy ra.
5. Điểm thứ năm là chiến thắng cộng sản, và ngày
30/4/1975, đã hoàn toàn thuộc vào lịch sử. Thuộc vào lịch sử không có
nghĩa là không còn ảnh hưởng tới thực tại và không còn đáng quan tâm.
Các biến cố lịch sử có ảnh hưởng lâu dài trên một dân tộc và cần được
liên tục nhìn lại và xét lại. Khi tôi còn là sinh viên trong thập niên
1960 đa số người Pháp còn ngưỡng mộ Napoléon như một anh hùng làm vẻ
vang cho nước Pháp, ngày nay mọi trí thức Pháp đều đồng ý rằng ông đã là
một tai họa. Chúng ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của giai đoạn Trịnh -
Nguyễn, Tây Sơn và chính sách của triều Nguyễn. Chúng ta cũng như mọi
dân tộc đều là sản phẩm của lịch sử. Thuộc vào lịch sử chỉ có nghĩa là
những tác nhân của biến cố không còn tác động lên thực tại nữa. Ngày
30-4-1975 đã thuộc hẳn vào lịch sử vì những người đã tạo ra nó, những
người đã đóng góp cho đảng cộng sản và những người đã không ngăn chặn
được nó, đã ra đi. Chỉ còn lại những con người thừa hưởng di sản bi đát
của đảng cộng sản. Quá khứ có thể khác nhau, cương vị có thể khác nhau
nhưng tất cả đều phải đối mặt với cùng một thử thách: làm thế nào để đưa
đất nước và dân tộc ra khỏi bế tắc.
6. Điểm thứ sáu là đã đến lúc phải thành thực và
sòng phẳng với quá khứ. Điều này có vẻ hiển nhiên, có nhìn lịch sử một
cách công bình và chính xác chúng ta chúng ta mới rút ra được những
quyết định đúng cho tương lai. Tuy vậy vẫn còn vài lấn cấn. Một người
bạn nói với tôi rằng đừng nên đả kích ông Hồ Chí Minh và giai đoạn Cách
Mạng Tháng 8 để đừng đụng chạm đến những vị lão thành cách mạng. Anh nói
thêm: "Tôi biết là có nhiều phê phán rất đúng, nhưng các vị lão thành
đều rất nhạy cảm với những đề tài này. Họ cũng rất bất mãn và có thể
tiếp tay cho cuộc vận động dân chủ nhưng nếu muốn tranh thủ họ thì đừng
đụng đến những điều mà họ tôn sùng". Bạn tôi không phải là người duy
nhất đưa ra quan điểm này, nhiều người đã nói như thế, nhất là các trí
thức trong nước.
Tôi chưa bao giờ tán thành quan điểm này dù nhìn nhận nó xuất phát
từ thiện chí. Đối với tôi sự kính trọng trước hết đòi hỏi sự thành thực.
Nói dối, hay không dám nói sự thực, để tranh thủ một người là đánh giá
thấp và đánh lừa người đó. Tôi quí trọng các vị lão thành cách mạng dù
họ đã tiếp tay cho những người lãnh đạo cộng sản đưa đất nước vào thảm
kịch. Tôi không trách họ vì những người khác cũng không hơn gì họ. Khi
một đất nước không có một giai cấp trí thức chính trị để hướng dẫn thì
mỗi người lầm lẫn một cách và họ đã lầm theo cách của họ. Tôi kính trọng
họ nhưng bổn phận trước hết của chúng ta là bổn phận đối với sự thực và
những nạn nhân của cuộc chiến này và chế độ mà nó đã để lại.
Đàng nào thì vấn đề cũng không đặt ra nữa. Những vị lão thành cách
mạng phần lớn đã ra đi, phần còn lại sắp ra đi và khả năng đóng góp đang
suy giảm nhanh chóng. Chúng ta vẫn trân trọng những đóng góp sắp tới
của họ nhưng không nên chờ đợi nhiều nữa. Chúng ta cần bộc trực nhận
diện mọi sự kiện để rút ra những bài học đúng.
7. Điều quan trọng nhất trong lúc này là ý thức
rằng chúng ta đang sống một khúc quanh lịch sử lớn. Đất nước đã thay đổi
nhiều, chủ yếu do được lôi kéo bởi một thế giới thay đổi dồn dập hàng
ngày, và đã chín muồi cho một thay đổi chế độ. Nhân sự chính trị của đất
nước đang đổi mới. Một thế hệ mới đang nhập cuộc. Một lớp trí thức
chính trị, mà chúng ta chưa hề có trong suốt dòng lịch sử, đang hình
thành. Các tiến bộ về truyền thông đã mở ra cả một không gian tự do cho
thông tin, ý kiến và thảo luận trên mạng toàn cầu Internet. Không gian
tự do này ngày càng bao trùm và đang tiêu hóa nhanh chóng không gian vật
chất mà những người cầm quyền -vì tăm tối- vẫn còn cố gắng duy trì.
Cố gắng tuyệt vọng vì lầm thời đại. Hơn nữa chế độ đang trả giá cho
sự bất tài và tham những của nó. Bối cảnh kinh tế xã hội đang rất khó
khăn và sẽ còn khó khăn hơn trong những ngày sắp tới, phẫn nộ xã hội sẽ
lên cao nhanh chóng. Nội bộ đảng cộng sản cũng đã tích lũy quá nhiều mâu
thuẫn. Chỗ dựa Trung Quốc của họ đang lung lay. Bối rối đã thấy rõ. Chế
độ đã phải chấp nhận những nhượng bộ chưa từng thấy. Họ đã phải trả tự
do cho những người dân chủ, như Vi Đức Hồi, không những không nhận tội
và xin khoan hồng mà còn dõng dạc tuyên bố tiếp tục đấu tranh. Họ đã
phải chấp nhận sự hiện diện ngày càng đông đảo và sắp thành áp đảo của
những người -chủ yếu là những thanh niên nghĩa là tương lai tức khắc của
đất nước- công khai phản bác chế độ và khẳng định lập trường dân chủ.
Dân chủ không chỉ tất yếu mà còn đang đến. Chế độ độc tài toàn trị đang
sống những ngày lúng túng cuối cùng. Tất cả vấn đề chỉ là dân chủ sẽ đến
như thế nào, đến nhanh hay chậm, đến trong sự hỗn loạn của căm thù bùng
nổ hay trong hòa bình và trật tự của tình anh em tìm lại.
Vận hội lịch sử này đòi hỏi quyết tâm, sáng suốt và
trách nhiệm. Để hiểu rằng đấu tranh chính trị không bao giờ là đấu
tranh cá nhân cả mà luôn luôn là đấu tranh có tổ chức. Điều mà chúng ta
cũng cần hiểu rất rõ là xây dựng một tổ chức chính trị đòi hỏi, ngoài
một tư tưởng chính trị và một dự án chính trị đúng đắn, những cố gắng
kiên trì trong nhiều năm trong đó mỗi người phải vừa có quyết tâm và sự
khiêm tốn cần thiết để hy sinh cái riêng cho cái chung. Một tổ chức
chính trị không thể thành lập một sớm một chiều và không phải ai cũng có
thể thành lập một tổ chức chính trị. Những manh động chỉ có tác dụng
đánh lạc hướng sự chú ý khỏi những cố gắng nghiêm túc và gây hỗn loạn
thay vì đóng góp cho cuộc vận động dân chủ, chúng không nên được khuyến
khích.
Lời cuối: Từ trước đến nay trong lịch sử nước ta đã
chỉ có những chế độ nô lệ. Những cuộc chiến tranh chống xâm lăng mà
chúng ta tự hào trong chiểu sâu cũng chỉ có mục đích thay thế một chế độ
nô lệ ngoại bang bằng một chế độ nô lệ bản xứ. Chúng ta chưa bao giờ là
một dân tộc tự do. Ngày nay chúng ta đang đứng trước hy vọng bước vào
giai đoạn thứ hai của lịch sử, giai đoạn của một nước Việt Nam dân chủ
và của những con người Việt Nam tự do. Chúng ta vẫn có quyền lạc quan.
Đất nước dù rất thua kém nhưng không tuyệt vọng. Tiềm năng dân tộc, con
người cũng như tài nguyên thiên nhiên, còn rất lớn và chỉ chờ đợi để
được vận dụng một cách hợp lý. Chúng ta sẽ vươn lên mạnh mẽ một khi rũ
bỏ được ách độc tài này.
Kỷ niệm ngày 30/4/1975 là dịp để chúng ta nhân diện cơ hội đang đến và quyết tâm đúng hẹn với lịch sử.
Nguyễn Gia Kiểng
(30/4/2014)