Đỗ Anh Tuấn
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Vĩnh Phúc, ngày 29 tháng 12 năm 2013
ĐƠN KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Kính gửi: Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội
Địa chỉ: 434A, Trần Khát Chân, Phường Phố Huế, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Địa chỉ: 434A, Trần Khát Chân, Phường Phố Huế, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Họ và tên người khởi kiện: Đỗ Anh Tuấn
Sinh ngày: 07/5/1985
Số CMND: 135137687
Hộ khẩu thường trú: tổ 4 - phường Xuân Hòa - thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc
Chỗ ở hiện nay: thôn Xuân Mai 2 - phường Phúc Thắng - thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc
Sinh ngày: 07/5/1985
Số CMND: 135137687
Hộ khẩu thường trú: tổ 4 - phường Xuân Hòa - thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc
Chỗ ở hiện nay: thôn Xuân Mai 2 - phường Phúc Thắng - thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc
Họ tên, chức vụ người đại diện của người khởi kiện: Luật sư Trần Thu Nam
Chức vụ: Trưởng Văn phòng luật sư Tín Việt và cộng sự
Trụ sở tại: Số 68 đường Lê Văn Lương, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại: 04.35553434 - Fax: 04.35553434 - Email: luatsunam01@gmail.com
Chức vụ: Trưởng Văn phòng luật sư Tín Việt và cộng sự
Trụ sở tại: Số 68 đường Lê Văn Lương, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại: 04.35553434 - Fax: 04.35553434 - Email: luatsunam01@gmail.com
Họ và tên người bị kiện thứ nhất: Nguyễn Văn Hiếu
Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng)
Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng)
Địa chỉ: 30, Lê Đại Hành, Phường Lê Đại Hành, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Họ và tên người bị kiện thứ hai: Trưởng Công an quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là Trưởng Công an quận Hai Bà Trưng)
Địa chỉ: 86 Trần Cao Vân - quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội
Địa chỉ: 86 Trần Cao Vân - quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội
Họ và tên người bị kiện thứ ba: Trưởng Công an phường Lê Đại Hành - quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội (sau đây gọi tắt là Trưởng Công an phường Lê Đại Hành)
Địa chỉ: 41 Nguyễn Đình Chiểu, phường Lê Đại Hành - quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội.
Địa chỉ: 41 Nguyễn Đình Chiểu, phường Lê Đại Hành - quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ KIỆN
Vào hồi 17h00 ngày 08/12/2013, để kỷ niệm ngày NHÂN QUYỀN THẾ GIỚI
(10/12/1948), tôi đi tặng và tuyên truyền về CẨM NANG THỰC THI QUYỀN LÀM
NGƯỜI tại công viên Thống Nhất - phường Lê Đại Hành - quận Hai Bà Trưng
- thành phố Hà Nội, nội dung cuốn cẩm nang gồm: một số điều của Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 và Tuyên ngôn nhân quyền liên hợp
quốc năm 1948 thì bị Công an quận Hai Bà Trưng và công an phường Lê Đại
Hành đấm, đá nhiều cái rồi dùng động tác khóa tay, túm áo đưa về trụ sở
công an phường Lê Đại Hành lập biên bản vi phạm hành chính. Đến ngày
26/12/2013, tôi nhận được Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
5037/QĐ-XPHC ngày 11/12/2013 của ông Nguyễn Văn Hiếu - chủ tịch UBND
quận Hai Bà Trưng xử phạt tôi số tiền 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu
đồng), tịch thu tài sản của tôi gồm 162 cuốn “cẩm nang thực thi quyền
làm người” (Sau đây gọi tắt là Quyết định số 5037/QĐ-XPHC). Quá trình
bắt giữ, lập biên bản, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính này vi
phạm hàng loạt các quy định của hiến pháp, pháp luật, cụ thể như sau:
1. Vi phạm pháp luật về lý do bắt:
- Tại công viên Thống Nhất - phường Lê Đại Hành - quận Hai Bà Trưng -
thành phố Hà Nội, mặc dù tôi không hề có thái độ chống đối, ngăn cản,
nhưng công an quận Hai Bà Trưng đã đấm, đá tôi liên tiếp nhiều cái vào
bụng và chặt tay vào cổ. Hành vi này đã được rất nhiều anh công an quay
phim, chụp ảnh lại. Hành vi này đã vi phạm Điều 71 hiến pháp 1992 “Công
dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể”.
- Tại công an phường Lê Đại Hành, tôi hỏi họ bắt tôi vì lý do gì thì
họ nói với tôi là có người tố cáo tôi sử dụng ma túy. Tôi yêu cầu họ cho
xem đơn tố cáo để kiện ngược lại người đó tội vu khống (Điều 122 Bộ
luật Hình sự) nhưng công an phường Lê Đại Hành không đưa.
2. Vi phạm pháp luật về khám xét người:
- Sau đó anh công an lúc trước nói tôi bị tố cáo sử dụng ma túy tự
xưng là phó trưởng công an phường Lê Đại Hành ký quyết định khám xét
người đối với tôi nhưng không đưa cho tôi một bản theo quy định. Hành vi
này vi phạm về:
+ Căn cứ, điều kiện để thực hiện biện pháp khám người theo thủ tục
hành chính được quy định tại khoản 1 điều 127 Luật Xử lý vi phạm hành
chính ngày 20/06/2012 (sau đây gọi tắt là luật XLVPHC 2012) vì công an
phường Lê Đại Hành không hề có căn cứ tôi cất giấu đồ vật, tài liệu,
phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
+ Thẩm quyền ra quyết định khám xét người được quy định tại khoản 2
điều 127 luật XLVPHC 2012 vì chỉ có Trưởng Công an phường mới có thẩm
quyền này.
+ Hành vi khám người không lập biên bản khám người, không đưa cho tôi
một bản Quyết định khám người và biên bản khám người đã vi phạm khoản 5
điều 127 luật xử lý VPHC 2012.
+ Hành vi khám xét người này đã vi phạm Điều 71 hiến pháp 1992 “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể”
3. Vi phạm pháp luật về khám xét điện thoại:
- Sau khi khám người, công an phường Lê Đại Hành đã giằng điện thoại
khỏi tay của tôi, lấy USB từ túi quần của tôi và tiến hành khám xét
chiếc điện thoại này của tôi, họ đã chép toàn bộ danh bạ điện thoại,
chép các cuộc gọi đến, cuộc gọi đi, cuộc gọi nhỡ, đồng thời xem và chép
các tin nhắn gửi đến, gửi đi của tôi. Theo tôi được biết, phần khám xét
USB của tôi do công an quận Hai Bà Trưng tiến hành. Sau khi lấy dữ liệu
xong, họ yêu cầu tôi ký vào biên bản kiểm tra điện thoại và biên bản
kiểm tra USB. Tôi có nói với họ là: “Các anh đưa cho tôi quyết định kiểm
tra thì tôi sẽ ký vào biên bản” nhưng họ không đưa ra bất kỳ quyết định
khám xét nào mà đi tìm 2 người ký vào biên bản ở vị trí người làm chứng
(mặc dù 2 người này không tham gia vào quá trình khám xét).
- Hành vi khám xét điện thoại, khám xét USB vi phạm điều 73 hiến pháp
1992 “Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn
và bí mật”; vi phạm điểm b khoản 2 Điều 125 bộ luật hình sự “Tội xâm
phạm bí mật điện thoại của người khác”.
4. Vi phạm về quyền tự do thông tin:
- Trong suốt quá trình bắt, giữ tôi tại công an phường Lê Đại Hành từ
17h00 - 23h30 ngày 08/12/2013, có rất nhiều cuộc điện thoại của vợ và
bạn bè gọi cho tôi, tuy nhiên công an phường Lê Đại Hành liên tục giữ
điện thoại của tôi, họ đã không cho tôi sử dụng để gọi điện cho luật sư
mặc dù tôi đã đưa ra yêu cầu. Hành vi này đã vi phạm Điều 69 hiến pháp
1992 “Công dân có quyền được thông tin”;
5. Vi phạm thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính:
- Trong suốt quá trình bắt, giữ tôi tại công an phường Lê Đại Hành,
tôi không hề nhận được bất cứ quyết định tạm giữ nào. Đến khoảng 22h30,
công an phường Lê Đại Hành, công an quận Hai Bà Trưng tiến hành lập biên
bản vi phạm hành chính với lỗi vi phạm thuộc điểm c) khoản 4, điều 24
nghị định 02/2011/NĐ-CP ngày 06/01/2011 “Tàng trữ, phát hành xuất bản
phẩm in, sao lậu hoặc xuất bản phẩm không có hóa đơn, chứng từ thể hiện
nguồn gốc hợp pháp từ 150 bản trở lên”.
- Tại biên bản vi phạm hành chính này:
+ Trong phần “ý kiến của người vi phạm”, tôi đã viết: “Nội dung cuốn
"cẩm nang thực thi quyền làm người" gồm Hiến pháp năm 1992 và Tuyên ngôn
nhân quyền liên hợp quốc năm 1948”;
+ Trong phần “ý kiến khác”, tôi đã viết: “In Hiến pháp năm 1992 và
Tuyên ngôn nhân quyền liên hợp quốc năm 1948 không cần phải có giấy phép
xuất bản”;
+ Tại phần ký tên, tôi đã viết: “Tôi không đồng ý với lỗi vi phạm trên”
Sau đó tôi ký tên vào một bản và nói “01 bản này em giữ, em sẽ ký tiếp 01 bản nữa giống như vậy cho các anh”. Tôi vừa dứt lời thì 2 anh công an đứng sau lưng xốc nách và giữ chặt tay của tôi, người thứ 3 giằng biên bản khỏi tay của tôi (anh giằng biên bản chính là người đã ký tên vào biên bản đó, theo tôi được biết thì anh này là công an quận Hai Bà Trưng). Một lúc sau tôi nghe công an phường Lê Đại Hành nói với tôi là: “Tao không cần mày ký luôn!” sau đó tôi nghe họ tiếp tục nói với nhau: “mời người vào ký làm chứng về việc từ chối nhận và ký vào biên bản vi phạm hành chính”. Tôi có nói với họ là: “luật đã quy định như vậy, quy trình đã lập ra như vậy, các anh cố tình làm sai thì các anh phải chịu trách nhiệm”.
Sau đó tôi ký tên vào một bản và nói “01 bản này em giữ, em sẽ ký tiếp 01 bản nữa giống như vậy cho các anh”. Tôi vừa dứt lời thì 2 anh công an đứng sau lưng xốc nách và giữ chặt tay của tôi, người thứ 3 giằng biên bản khỏi tay của tôi (anh giằng biên bản chính là người đã ký tên vào biên bản đó, theo tôi được biết thì anh này là công an quận Hai Bà Trưng). Một lúc sau tôi nghe công an phường Lê Đại Hành nói với tôi là: “Tao không cần mày ký luôn!” sau đó tôi nghe họ tiếp tục nói với nhau: “mời người vào ký làm chứng về việc từ chối nhận và ký vào biên bản vi phạm hành chính”. Tôi có nói với họ là: “luật đã quy định như vậy, quy trình đã lập ra như vậy, các anh cố tình làm sai thì các anh phải chịu trách nhiệm”.
- Quá trình lập biên bản đã vi phạm khoản 3 điều 58 luật XLVPHC 2012
“Biên bản vi phạm hành chính lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính 01 bản”.
6. Tại biên bản giao nhận người giữa công an phường
Lê Đại Hành với công an phường Phúc Thắng - thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh
Phúc nơi tôi cư trú, tôi có nói rõ và ghi vào biên bản việc tôi bị đánh
và bị đau, đoạn này có được công an quận Hai Bà Trưng ghi hình lại. Tuy
nhiên, phía công an phường Lê Đại Hành, công an quận Hai Bà Trưng có
nói: “không chết được đâu”.
7. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính sai pháp luật:
- Từ một loạt các vi phạm trên của công an phường Lê Đại Hành, công
an quận Hai Bà Trưng đã dẫn tới quyết định số 5037/QĐ-XPHC ngày
11/12/2013 của ông Nguyễn Văn Hiếu - chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội xử phạt tôi 35.000.000đ (ba mươi lăm triệu đồng) và
tịch thu tài sản của tôi gồm 162 cuốn CẨM NANG THỰC THI QUYỀN LÀM NGƯỜI
với lý lẽ cho rằng đó là “xuất bản phẩm in sao lậu”.
- Quyết định số 5037/QĐ-XPHC là quy định của pháp luật bởi các lẽ sau:
+ Quyết định số 5037/QĐ-XPHC thiếu các nội dung theo điều 68 luật
XLVPHC 2012 bao gồm: “Hành vi vi phạm hành chính”; “Điều, khoản của văn
bản pháp luật được áp dụng”
+ Quyết định số 5037/QĐ-XPHC áp dụng sai văn bản pháp luật: Theo
Khoản 1, Điều 1 nghị định 02/2011/NĐ-CP ngày 06/01/2011 nói rõ phạm vi
điều chỉnh của nghị định: “Nghị định này quy định hành vi vi phạm, hình
thức, mức xử phạt và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động báo chí, xuất bản”. Tiếp theo, tại khoản 4, Điều 4 Luật xuất bản
ngày 20/11/2012 xác định: “Xuất bản phẩm là..... được xuất bản thông qua
nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản”. Như
vậy, việc in bằng máy photocopy cẩm nang thực thi quyền làm người của
tôi không nằm trong hoạt động báo chí, xuất bản và sản phẩm làm ra không
phải là xuất bản phẩm.
- Việc áp dụng nghị định 02/2011/NĐ-CP ngày 06/01/2011 để làm căn cứ xử phạt tôi là sai quy định của pháp luật.
- Nếu Công an quận Hai Bà Trưng, ông Nguyễn Văn Hiếu - chủ tịch UBND
quận Hai Bà Trưng cho rằng việc in “cẩm nang thực thi quyền làm người”
bằng máy photocopy là hoạt động xuất bản và sản phẩm in ra là “xuất bản
phẩm in sao lậu” thì có lẽ họ có thể phạt tất cả những người sử dụng các
máy photocopy đang hàng ngày in sách, tài liệu, tờ rơi, tờ gấp.... trên
đất nước này. Tôi tin rằng chiếc máy photocopy ở UBND quận Hai Bà Trưng
vẫn hàng ngày in ra các thông tư, nghị định, hiến pháp, tài liệu....ra
làm nhiều bản mà chưa từng bị phạt lỗi “xuất bản phẩm in sao lậu”.
- Mặc dù đã tìm nhiều văn bản, nhưng tôi chưa tìm thấy bất cứ văn bản
nào “giải thích từ ngữ” cho cụm từ “in sao lậu”. Nó cho thấy đây là một
cụm từ rất mơ hồ và không chuẩn xác trong ngôn ngữ của nhà làm luật.
+ Nếu như hiểu rằng “in sao lậu” nghĩa là in mà không bảo vệ quyền tác giả, chúng ta giải thích thế nào về việc tuyên ngôn độc lập của Việt Nam trích dẫn tuyên ngôn độc lập của nước Pháp và nước Mỹ?
+ Nếu như hiểu rằng “in sao lậu” nghĩa là in mà không bảo vệ quyền tác giả, chúng ta giải thích thế nào về việc tuyên ngôn độc lập của Việt Nam trích dẫn tuyên ngôn độc lập của nước Pháp và nước Mỹ?
+ Nếu như hiểu rằng “in sao lậu” nghĩa là in mà không chịu quản lý,
không nộp thuế cho nhà nước... thì chúng ta có thể phạt tất cả các hoạt
động photocopy và các hoạt động in trên đất nước này.
- Điều 12 hiến pháp 1992 khẳng định “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Như vậy,
việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật tạo nên sự hiểu biết
pháp luật trong xã hội, tạo thuận lợi hơn cho việc quản lý xã hội của
nhà nước. Trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến pháp luật đúng ra phải
thuộc về nhà nước, thuộc về cơ quan công an, thế nhưng khi công dân
tuyên truyền pháp luật lại bị ngăn cản, phạt tiền. Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 5037/QĐ-XPHC ngày 11/12/2013 của ông Nguyễn Văn Hiếu
- chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng ngoài việc sai pháp luật còn góp phần
làm cho người dân sợ hãi nhân quyền, sợ hãi hiến pháp, làm cho xã hội
trở nên ì ạch. Ở một đất nước mà khi người dân nói tới "dân chủ", "nhân
quyền" mà chính quyền đã ngăn chặn, tìm cách xử phạt thì đó có phải là
đất nước của dân chủ, tự do???
Từ các lẽ trên, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét, giải quyết các nội dung sau:
- Hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 5037QĐ-XPHC ngày
11/12/2013 về lĩnh vực báo chí, xuất bản của ông Nguyễn Văn Hiếu - chủ
tịch UBND quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội đối với tôi.
- Buộc công an phường Lê Đại Hành, công an quận Hai Bà Trưng - thành
phố Hà Nội trả lại toàn bộ tài sản của tôi là 162 cuốn “cẩm nang thực
thi quyền làm người”.
- Xử lý các hành vi đấm và đá tôi của công an quận Hai Bà Trưng tại
công viên Thống Nhất - phường Lê Đại Hành - quận Hai Bà Trưng - thành
phố Hà Nội.
- Xử lý các hành vi lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền tự do thân thể,
vi phạm quyền bí mật điện thoại, vi phạm quyền bí mật thông tin của tôi
trong việc khám xét người, lấy thông tin điện thoại, lấy thông tin nội
dung USB của Công an phường Lê Đại Hành, công an quận Hai Bà Trưng -
thành phố Hà Nội.
- Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật luật hành chính khi không đưa
cho tôi các văn bản mà theo quy định tôi phải có 1 bản gồm: Quyết định
khám người theo thủ tục hành chính; quyết định kiểm tra điện thoại;
quyết định kiểm tra USB; quyết định tạm giữ đồ vật, tài liệu (162 cuốn
“cẩm nang thực thi quyền làm người”); biên bản vi phạm hành chính số
10/BB/VPHC ngày 08/12/2013 của công an quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà
Nội.
Tôi xin cam đoan về việc không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Phúc Yên, ngày 29 tháng 12 năm 2013
NGƯỜI LÀM ĐƠN Đỗ Anh Tuấn
NGƯỜI LÀM ĐƠN Đỗ Anh Tuấn