Bạch Diện Thư Sinh
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước
Đọc báo mạng, chúng ta thường bắt gặp một số phản hồi từ các độc giả
trẻ trong nước thắc mắc tại sao Việt Nam Cộng Hòa và các cộng đồng
người Việt Quốc gia hải ngoại lại lấy một bài hát của Nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước, một Đảng viên Cộng Sản, để làm bài Quốc ca ?
Để góp phần giải tỏa phần nào thắc mắc của các bạn trẻ trong nước,
trước hết, nên tìm về lai lịch khá đặc biệt của bài hát danh tiếng này.
Bối cảnh
Nửa đầu Thế kỉ 20, cả Đông Dương thuộc Pháp (Việt-Miên-Lào) chỉ có
một Đại học mang tên Đại Học Đông Dương (Université de L’Indochine) tại
Hà Nội. Hồi những năm 1940, có khoảng trên 800 sinh viên theo học ở đây,
bao gồm phân nửa là sinh viên Việt Nam, còn lại là các sinh viên Miên,
Lào, Pháp và có cả một ít sinh viên Tầu và vài nước Đông Nam Á nữa.
Thời đó, chỉ có con nhà khá giả mới có tiền học lên Đại học, nhất là
phải đi học xa nhà. Nói chung, hầu hết các sinh viên này chỉ lo “giật”
lấy mảnh bằng để sau này có địa vị, có tiền bạc theo nguyện vọng của cha
mẹ và gia đình họ.
Tuy nhiên, vẫn có một số sinh viên biết đặt dân tộc và đất nước lên
trên những lợi lộc vật chất và công danh, sự nghiệp bản thân. Do đã lĩnh
hội được tư tưởng khai phóng và tinh thần cách mạng Pháp, họ hiểu biết
về các quyền lợi căn bản của người dân, như các quyền bình đẳng, tự do
ngôn luận, tự do hội họp, tự do đi lại… và hiểu như thế nào là chế độ
thực dân, là áp bức bóc lột, là độc lập, tự do, dân chủ… cho nên họ đã
đem những kiến thức mới mẻ ấy để nâng nhiệt tình yêu nước của chính mình
lên một bước trưởng thành mới; sau đó, họ dùng báo chí, ca, kịch để
khơi dậy lòng ái quốc và thúc giục đồng bào đứng lên chống lại thực dân
Pháp, giành lại độc lập cho nước nhà.
Một điều khá lí thú là những sinh viên hoạt động văn hóa, văn nghệ
hăng say và đều đặn nhất trong thời điểm ấy là nhóm sinh viên từ Miền
Nam ra học tại Hà Nội, như Lưu Hữu Phước, Nguyễn Tôn Hoàn, Mai Văn Bộ,
Huỳnh Văn Tiểng, Trần Văn Khê, Phan Thanh Hòa, Đặng Ngọc Tốt, Nguyễn
Thành Nguyên, Nguyễn Tú Vinh, Nguyễn Văn Thiêm, Hồ Văn Huê, Nguyễn Mỹ
Ca, Phan Thị Bình, Nguyễn Thị Thiều…
Xuất sắc nhất trong số các sinh viên hoạt động văn nghệ thời đó là
Sinh viên Lưu Hữu Phước. Một mình Sinh viên Lưu Hữu Phước đã sáng tác ra
nhiều bài hát ái quốc vượt thời gian, như Tiếng Gọi Sinh Viên, Người
Xưa Đâu Tá, Bạch Đằng Giang (lời của Mai Văn Bộ), Ải Chi Lăng (lời của Mai Văn Bộ), Hội Nghị Diên Hồng, Hát Giang Trường Hận (Hồn Tử Sĩ), Xếp Bút Nghiên …
Đây là những bài hát có tính cách lịch sử, đã làm bừng sống dậy tình yêu quê hương đất nước.
Bài Sinh Viên Hành Khúc
Bài Sinh Viên Hành Khúc (La Marche des Étudiants) là bài hát có lịch
sử rất đặc biệt. Bài được sáng tác năm 1939, nhạc của Lưu Hữu Phước,
lời tiếng Pháp của Lưu Hữu Phước và Mai Văn Bộ và được chọn là bài hát
của Câu Lạc Bộ Học Sinh Petrus Ký (chưa tìm thấy lời tiếng Pháp đầu tiên
này).
Từ khi ra đời, phần nhạc của bài hát không thay đổi, nhưng phần lời
sẽ lần lượt được sửa chữa bởi tác giả, bởi các bạn sinh viên và sau này
còn được sửa chữa coi như mới hẳn theo mục tiêu và chính kiến khác nhau
của các tập thể chọn lựa bài hát này. Bài hát cũng sẽ mang các tên khác
nhau: Sinh Viên Hành Khúc, Tiếng Gọi Sinh Viên, Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh Niên, Quốc Dân Hành Khúc, Tiếng Gọi Công Dân.
Trước hết, theo Ts. Trần Quang Hải và Báo Chuông Việt thì Nhạc sĩ
Lưu Hữu Phước đã đặt lời tiếng Việt đầu tiên cho bài hát trước 1940, hồi
còn là học sinh ở Sài Gòn với câu mở đầu: “Này anh em ơi ! Chúng ta
kết đoàn hùng tráng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi kiếm nguồn tươi sáng…“.
Khi ra học ở Đại Học Đông Dương, Hà Nội, khoảng 1940 – 1941, ông lại sửa
chữa đôi chút với lời mới như sau: “Nào anh em ơi ! Tiến lên đến ngày
giải phóng. Đồng lòng cùng nhau, ta đi sá gì thân sống… ” và đặt tên cho
bài hát là “Sanh Viên Hành Khúc” (Nguyễn Vĩnh Tráng. Lời mới cho bài
hát “Tiếng gọi thanh niên” dẫn theo DT Pho Rum của Đặc Trưng, năm 2000,
với tài liệu lấy ở “Âm Nhạc Việt Nam ” của Trần Quang Hải, 1989, và Báo
Chuông Việt 1966. Chimviet,free.fr.).
Từ chỗ ít người biết đến, bài hát đã được một nhóm sinh viên đem ra
hát công khai trong những buổi đi cắm trại hoặc đi viếng những địa danh
lịch sử. Và vì phần lời bằng tiếng Việt lúc đầu còn “thô kệch”, lại bị
Sở Mật Thám Pháp làm khó dễ do nội dung thôi thúc sinh viên đứng lên đấu
tranh giải phóng đất nước, cho nên các bạn sinh viên đã phải sửa lại
lời cho trôi chảy hơn cũng như phải “đấu tranh” với cơ quan kiểm duyệt
để bài hát trở thành hợp pháp, và sau đó được Tổng Hội Sinh Viên Đông
Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois, viết tắt
A.G.E.I.) chọn làm bài hát chính thức với danh xưng là “Sinh Viên Hành
Khúc” hay “Tiếng Gọi Sinh Viện”, mở đầu bằng: “Nầy Sinh Viên ơi ! Đứng
lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi, đi đi mở đường khai lối… “.
Việc các sinh viên thuộc Tổng Hội Sinh Viên phân công nhau soạn ra
phần lời mới cho bài Sinh Viên Hành Khúc được Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật
lại với khá nhiều chi tiết. Theo ông, chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942,
Tổng Hội Sinh Viên tổ chức tại Đại Giảng Đường của Viện Đại Học một buổi
ca hát để lấy tiền giúp các bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện được dùng
làm nơi thực tập cho các sinh viên Khoa Y Dược. Nhân dịp này, Tổng Hội
Sinh Viên muốn tung ra một bài hát đặc biệt để làm bài hát chính thức
của Tổng Hội. Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội lúc đó là Sv. Nguyễn Tôn
Hoàn nhận thấy nhạc điệu bài La Marche des Étudiants của Sv. Lưu Hữu
Phước “có tánh cách khích động tinh thần tranh đấu hơn hết” nên đã chọn
để làm phần nhạc cho bài hát chính thức của Tổng Hội Sinh Viên, lấy tên
là Sinh Viên Hành Khúc và giao cho một Ủy ban soạn phần lời cho bản nhạc
này. Ủy Ban gồm có các Sinh viên Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn
Tiểng, Nguyễn Thành Nguyên, Phan Thanh Hòa, Hoàng Xuân Nhị. (Gs. Nguyễn
Ngọc Huy. Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam. TTXVA. Xem thêm bài Ký Ức Về Lưu
Hữu Phước, Trần Văn Khê và Tổng hội Sinh viên Việt Nam của Ls. Lâm Lễ
Trinh. Vietnam Weekly News, Số 952, 27.7.2007).
Sinh viên Hành khúc
I.
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường
Điệp khúc:
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
II.
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá!
Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn
Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền
(Điệp khúc)
III.
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng
Là sinh viên vun cây văn hoá,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá
Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai
Hằng mong ta ra vững cầm tay lái
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Điệp khúc)
Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng lòng cùng đi, đi, mở đường khai lối
Vì non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường
Điệp khúc:
Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết lòng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống!
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng!
II.
Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết còn chưa xoá!
Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
Bình bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn
Hồ Tây tranh phong oai son phấn,
Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn
Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám
Nòi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền
(Điệp khúc)
III.
Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành trình còn xa, chúng ta phải cùng nhau gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem lòng son cho giống dòng
Là sinh viên vun cây văn hoá,
Từ trước sẵn có nhiều hoa lá
Đời mới kiến thiết đáp lòng những ai
Hằng mong ta ra vững cầm tay lái
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Điệp khúc)
Phần lời tiếng Việt chỉ thích hợp với các sinh viên Việt Nam, do đó,
để toàn thể sinh viên Đại học Đông Đương, gồm cả Pháp, Miên, Lào, có
thể hát chung một bài hát, Ủy ban soạn lời đã viết thêm phần lời bằng
tiếng Pháp và lấy lại tên cũ là La Marche des Étudiants.
La Marche des Étudiants
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’espace.
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère Patrie!
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses.
Điệp khúc:
Te servir, chère Indochine,
Avec cœur et discipline,
C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ébranle notre foi!
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’espace.
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
Une voix monte ravie:
Servir la chère Patrie!
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de fermes promesses.
Điệp khúc:
Te servir, chère Indochine,
Avec cœur et discipline,
C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ébranle notre foi!
Sau buổi trình diễn ca nhạc chiều ngày 15.3.1942 thành công mĩ mãn,
bài Sinh Viên Hành Khúc được công nhận là bài hát chính thức của Tổng
Hội Sinh Viên Đại Học Đông Dương. Từ đó, các sinh viên trong Ban Âm Nhạc
tiếp tục phổ biến bài hát này cho công chúng Hà Thành trong những buổi
trình diễn tại Rạp Olympia, qua tiếng hát xuất sắc của hai Sinh viên
Phan Thị Bình và Nguyễn Thị Thiều. Hai sinh viên này cũng từ Miền Nam ra
Hà Nội học Ngành Nữ Hộ Sinh (École des Sage-femmes) tại Bệnh viện René
Robin.
Nhân ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1942, bài Sinh Viên Hành Khúc lại
được các sinh viên Đại Học Đông Dương ca lên hùng tráng ngay dưới chân
núi Nghĩa Lĩnh (Việt Trì, Tỉnh Phú Thọ), nơi tọa lạc Đền Hùng.
Sau Hà Nội, các sinh viên đã đưa bài Sinh Viên Hành Khúc trở lại
Miền Nam để trình diễn tại Nhà Hát Lớn Sài Gòn và được công chúng hoan
nghênh nhiệt liệt.
Sau buổi trình diễn ca nhạc tại Đại Giảng Đường Trường Đại học ngày
15.3.1942, mùa hè năm đó, Tổng Hội Sinh Viên lại tổ chức lễ mãn khóa cho
các sinh viên tốt nghiệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, có Toàn Quyền Đông
Dương Decoux (Le Gouverneur Général de l’Indochine) và nhiều viên chức
người Pháp đến dự. Lễ khai mạc bắt đầu, tất cả mọi người đứng lên nghiêm
chỉnh, Ban Nhạc Hải Quân Pháp (Orchestre de la Marine) trổi Bài Quốc Ca
Pháp La Marseillaise. Tiếp ngay sau đó, ban nhạc cử Bài La Marche des
Étudiants. Nhạc tấu hùng tráng, lôi cuốn, hớp hồn, khiến Toàn Quyền Pháp
và toàn thể cử tọa vẫn đứng nghiêm như đang chào Quốc Kì của một Quốc
gia. Nghi lễ khai mạc trang trọng chấm dứt, chương trình văn nghệ mới
bắt đầu.
Bs. Nguyễn Lưu Viên, cựu sinh viên Đại Học Đông Dương, cũng kể về
một buổi lễ diễn ra tương tự vào ngày 03.3.1945, chỉ có 6 ngày trước khi
chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam bị quân đội Nhật đảo chính ngày
09.3.1945 (Bs. Nguyễn Lưu Viên. Những Kỷ Niệm Với Bài Quốc Ca Của VNCH.
Tập San Y Sĩ Tháng 4.2008).
Đến năm 1945, tổ chức Thanh Niên Tiền Phong ra đời ở Miền Nam, họ
cũng chọn bài này làm bài hát chính thức của tổ chức và đổi tên là Thanh
Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên.
Khi bài hát mang tên Thanh Niên Hành Khúc thì thay 2 chữ “sinh viên” bằng 2 chữ “thanh niên” mà thôi.
Sau khi Vua Bảo Đại thoái vị, ngày 30.8.1945, Hồ Chí Minh cho đưa
Cựu Hoàng ra Hà Nội và phong cho ông chức cố vấn. Nhưng đến ngày
16.3.1946, Ông Hồ “cho” Cựu Hoàng tháp tùng phái đoàn Nghiêm Kế Tổ đi du
lịch Nam Kinh, rồi ông “khuyên” Cựu Hoàng nên ở lại Tầu. Vì thế, Cựu
Hoàng mới đi Côn Minh rồi tới Hong Kong. Năm 1947, Pháp bắt đầu muốn
dùng con bài Bảo Đại và nhiều buổi tiếp xúc, nhiều cuộc vận động chính
trị diễn ra bận rộn suốt năm 1947. Trong một cuộc hội nghị tại Hồng Kông
do Cựu hoàng Bảo Đại triệu tập, có sự tham dự của một số nhân sĩ và đại
diện các tôn giáo, các đảng phái, Bs. Nguyễn Tôn Hoàn đã đề nghị hội
nghị lấy bài Thanh Niên Hành Khúc của Ns. Lưu Hữu Phước làm bài Quốc Ca
của Quốc Gia Việt Nam và đổi tên thành Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi
Công Dân. Hội nghị chấp thuận. Do đó, khi Chính phủ Nguyễn Văn Xuân ra
đời tại Sài Gòn vào ngày 02.6.1948 thì bài Tiếng Gọi Công Dân nghiễm
nhiên trở thành bài Quốc Ca.
Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa khai
mạc vào tháng 3 năm 1956, một trong những nhiệm vụ của Quốc Hội Lập Hiến
là chọn Quốc Kì và Quốc Ca. Một số nhạc sĩ đã tham dự cuộc thi tuyển
Quốc Ca, như Phạm Duy với bài Chào Mừng Việt Nam, Hùng Lân với 2 bài
Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam và Việt Nam Minh Châu Trời Đông, Ngô Duy
Linh với bài Một Trời Sao, Ngọc Bích và Thanh Nam với bài Suy Tôn Ngô
Tổng Thống (xin xem Biển Nhớ. Quốc Ca VNCH ra đời như thế nào. Dactrung.com).
Mặc dù bài Minh Châu Trời Đông của Nhạc sĩ Hùng Lân được coi là sáng
giá hơn và đã từng được Quốc Dân Đảng dùng làm Đảng Ca từ năm 1945,
nhưng cuối cùng Quốc Hội Lập Hiến lại chọn bài Quốc Ca mà Chính phủ
Nguyễn Văn Xuân (và cả Chính phủ Nguyễn Văn Tâm) đã chọn trước đó, rồi
ra lệnh cho nhân viên Đài Phát Thanh Sài Gòn giữ nguyên phần nhạc, nhưng
phải sửa lại lời ca cho phù hợp với giai đoạn mới và vận hội mới của
đất nước, cũng lấy tên là Tiếng Gọi Công Dân.
Quốc ca Việt Nam Cộng hòa: Tiếng gọi công dân
Này Công Dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho phơi thây trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người Công Dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống
Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!
Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống.
Vì tương lai Quốc Dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dù cho phơi thây trên gươm giáo,
Thù nước, lấy máu đào đem báo.
Nòi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người Công Dân luôn vững bền tâm trí.
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
Công Dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công Dân ơi! Mau làm cho cõi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống
Xứng danh nghìn năm giòng giống Lạc Hồng!
Đó là bài Quốc Ca của cả hai Nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ngày 30.4.1975, Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, người ta lấy lại tên cũ
cũng như phần lời của bài Tiếng Gọi Thanh Niên như thời Thanh Niên Tiền
Phong 1945.
Tại sao Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa lại là một bài hát của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, một Đảng viên Cộng Sản?
Chẳng riêng gì giới trẻ ngày nay, mà cả những người dân Miền Bắc,
nhất là các Đảng viên Cộng Sản đều không thể hiểu nổi, tại sao Miền Nam
tự do có thiếu gì nhạc sĩ tài ba, thiếu gì bài hát hay với đầy đủ ý
nghĩa, mà lại lấy ngay một bài hát của anh Cộng sản Lưu Hữu Phước để làm
Quốc ca?
Chính Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, từ năm 1949, đã viết thư kịch liệt phản
đối mạnh mẽ về việc này và sau đó, trong thời chiến tranh Nam Bắc, từ
Hà Nội, Ns. Lưu Hữu Phước từng lên Đài Tiếng nói Việt Nam (Hà Nội) liên
tục bác bỏ, giễu cợt và cả mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành
Khúc của ông “vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục
đích khác!”.
Thiển nghĩ, có thể luận giải vấn nạn này như sau:
Một:
Lí do đầu tiên khiến cho bài Sinh Viên Hành Khúc (Tiếng Gọi Sinh
Viên, Thanh Niên Hành Khúc, Tiếng Gọi Thanh Niên) của Nhạc sĩ Lưu Hữu
Phước được Quốc Hội Lập Hiến VNCH chọn làm bài Quốc ca chính là vì giá
trị nổi bật của bài hát đó.
Những ai đã biết bài Quốc ca Pháp, La Marseillaise, sẽ thấy bài này
mang hơi hướng của bài Quốc Ca Pháp. Điều đó là tự nhiên, bởi vì, thời
đó, người Pháp đã ở nước ta xấp xỉ 80 năm, ảnh hưởng văn minh, văn hóa
Pháp phổ biến khắp nơi, nhất là đối với giới trẻ theo Tây học như Lưu
Hữu Phước và các bạn đồng trang lứa của ông. Bài La Marseillaise được
coi là mẫu mực của loại “Hành Khúc Âu Châu”, là bài hát đầu tiên trong
thể loại này ở Âu châu. Vì thế, cũng như bài La Marseillaise, nhạc điệu
bài Sinh Viên Hành Khúc sáng tác theo thể loại hành khúc mạnh mẽ, dồn
dập; còn lời thì réo gọi, thôi thúc, nhất là Điệp khúc uy lực như như
một quân lệnh thét gọi tiến lên, hiến thân diệt thù, cứu nước.
Hai:
Bất cứ tác phẩm văn nghệ hoặc công trình nghiên cứu nào đã công khai
xuất bản đều nhắm vào sự hưởng dụng của mọi người. Như thế, mặc nhiên
tác phẩm ấy thuộc về quần chúng và quần chúng có quyền xử dụng, miễn là
không tìm cách kinh doanh kiếm lợi một cách trái phép hoặc chủ ý đạo
văn, vi phạm tác quyền của tác giả. Từ đó suy luận, Quốc Hội Lập Hiến
VNCH chọn bài nhạc của Ns. Lưu Hữu Phước để làm Quốc ca là một vinh dự
lớn cho Nhạc sĩ, bởi vì bài hát của ông đã được xử dụng nhằm mục đích
chung cao cả, tốt đẹp, thúc giục lòng yêu nước, yêu đồng bào một cách vô
vị lợi và luôn luôn nói rõ Ns. Lưu Hữu Phước là tác giả chứ không phải
là bất cứ ai khác.
Về luận giải này đã có 2 tiền lệ nổi tiếng, một tại Việt Nam, một tại Pháp:
Tiền lệ tại Việt Nam: Tác giả Xuân Ba viết trên
mạng kể về một kỉ niệm “hằn trong tâm trí” với Nhạc sĩ Văn Cao vào năm
1991 như sau: “Cũng chợt nhớ lần hầu chuyện trưa đó, khi chúng tôi gạn
rằng, về nhạc và lời của Tiến Quân Ca (Quốc ca của Cộng Sản VN) nếu giờ
cho biên tập lại, nhạc sĩ sẽ thêm bớt ở đoạn nào? Ông cười, lắc đầu:
“Ngay trong cái đêm tình cờ lần đầu được nghe Tiến Quân Ca trong một ngõ
vắng, tôi có nhận ra được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh nhưng
bài hát đã in ra rồi, bài hát đã phổ biến và không còn là của riêng tôi nữa…” (Xuân Ba. Sửa Lời Quốc Ca. tienphong.vn).
Tiền lệ tại Pháp: Trong bài Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt
Nam, Gs. Nguyễn Ngọc Huy thuật lại lai lịch bài La Marseillaise, tức là
bài Quốc ca của nước Pháp. Tác giả bài Quốc ca nước Pháp là viên sĩ
quan bảo hoàng Rouget de Lisle. Ông sáng tác bài này vào năm 1792 dưới
thời Vua Louis XVI. Năm sau, 1793, nhà vua bị Cách mạng Pháp xử tử và
Rouget de Lisle cũng bị bắt vì tội theo phe bảo hoàng và cũng đã bị lên
án tử hình. May mắn có Ông Lazare Carnot là Ủy viên Quốc phòng của Hội
Đồng Cách Mạng muốn cứu mạng Rouget, vì cả hai cùng xuất thân từ một
binh chủng. Ông Lazarre đề nghị Rouget tuyên thệ trung thành với Cách
Mạng, nhưng Rouget cự tuyệt, thà chết chứ dứt khoát không phủ nhận lí
tưởng bảo hoàng của mình. Cuối cùng Rouget de Lisle thoát chết chỉ vì
Chính phủ Cách Mạng của tay đại khủng bố Robespierre bị lật đổ trước khi
bản án tử hình Rouget de Lisle kịp thi hành. Sau năm 1793 ấy, Rouget de
Lisle tiếp tục chống Cách Mạng, nhưng chính quyền Cách Mạng Pháp vẫn
dùng bài La Marseillaise của Rouget de Lisle và đến năm 1795 thì chính
thức quyết định lấy bài này làm bài Quốc ca của nước Pháp.
Ba:
Người Cộng sản chủ trương điều tra lí lịch tam đại triệt để, đồng
thời trù ếm đối thủ tới đời con đời cháu. Trái lại, người Quốc gia không
vơ đũa cả nắm, công tội phân minh.
Thơ tiền chiến của Thế Lữ vẫn được giảng dậy và lưu truyền ở Miền
Nam trước 1975 cùng với những tập Điêu Tàn (1937) của Chế Lan Viên; Thơ
Thơ (1938) của Xuân Diệu; Tiếng Thu (1939) của Lưu Trọng Lư; Lửa Thiêng
(1940) của Huy Cận; Cô Hái Mơ (1939), Chân Quê (1940) và Lỡ Bước Sang
Ngang (1940) của Nguyễn Bính…
Các nhà văn ở lại Miền Bắc có tác phẩm xuất bản thời tiền chiến vẫn
được dân chúng Miền Nam tự do dành cho một chỗ đứng xứng đáng trên văn
đàn, như Nguyên Hồng với Bỉ Vỏ (1937); Nam Cao với Chí Phèo (1941); Tô
Hoài với Dế Mèn Phiêu Lưu Kí (1941) và O Chuột (1942) hay Nguyễn Tuân
với Vang Bóng Một Thời (1940) và Chiếc Lư Đồng Mắt Cua (1941)…
Riêng về loại nhạc tiền chiến của các tác giả ở lại Miền Bắc lại
càng được dân chúng Miền Nam yêu mến đặc biệt, như Văn Cao với Buồn Tàn
Thu (1939), Thiên Thai (1941), Bến Xuân (1942), Trương Chi (1943); Hoàng
Qúy với Cô Láng Giềng (1942-43); rồi Tô Vũ với Em Đến Thăm Anh Một
Chiều Mưa (1947); Nguyễn Văn Tý với Dư Âm hoặc Canh Thân với Cô Hàng Cà
Phê, Khúc Ca Mùa Hè, Anh Còn Cây Đàn…
Một trong những lí do chính khiến các tác phẩm tiền chiến của các
tác giả trên được dân Miền Nam tự do trân trọng và thưởng thức là vì khi
sáng tác các tác phẩm trên đây, tất cả các tác giả ấy chưa biết Đảng,
chưa theo Đảng, chưa trở thành Đảng viên Đảng Cộng Sản. Và vì thế các
tác phẩm ấy không có tính Đảng, không nhằm phục vụ Đảng. Lúc đó, các tác
giả được tự do sáng tác theo cảm hứng tự nhiên, trung thực và đầy tính nhân bản.
Một khi các tác giả ấy đi vào tổ chức Đảng và bắt đầu bị chỉ đạo
sáng tác để phục vụ chính trị, phục vụ tuyên truyền, sáng tác “để chào
mừng”…, thì tác phẩm không còn tính khai phóng, không còn khả năng làm
tròn sứ mệnh soi đường của một nghệ sĩ chân chính. Tất cả mọi sinh hoạt
văn học nghệ thuật đều nằm trong tay Đảng theo kiểu “bảy trăm tờ báo
trên toàn quốc chỉ có một Ban Biên Tập” như hiện nay. Dân Miền Nam tự do
rất bén nhậy. Từ khi các tác giả tiền chiến sáng tác theo lệnh Đảng,
dân Miền Nam không thèm biết tới những tác phẩm “văn nghệ” của các tác
giả ấy nữa.
Trường hợp Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước cũng giống như vậy.
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước khi sáng tác những bài ca ái quốc, ông còn là
một sinh viên yêu nước thuần túy, chưa theo Cộng sản. Do đó, những bài
hát ấy chưa có tính Đảng.
Thật vậy, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước sinh năm 1921. Năm 1940, sau khi đậu
Tú Tài tại Sài Gòn, ông ra Hà Nội học Đại học Đông Dương, ngành Y Dược.
Vào thời điểm đó, Lưu Hữu Phước là một sinh viên trẻ mới 19 tuổi, có
tài sáng tác các ca khúc, một thành viên trong nhóm sinh viên thuộc Đại
Học Đông Dương Hà Nội đầy nhiệt tình yêu nước và tích cực trong các sinh
hoạt văn hóa văn nghệ vào những năm đầu thập niên 1940.
Mãi mấy năm sau, khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền, Lưu Hữu
Phước mới tham gia Đảng Tân Dân Chủ cùng với một số sinh viên đồng trang
lứa. Trong kế hoạch lôi kéo hàng ngũ sinh viên trẻ về với mình, Cộng
Sản dùng chiến thuật tuyên truyền, mua chuộc, thúc ép và cả khủng bố.
Điển hình là vào năm 1946, Việt Minh Cộng Sản đã cho người vào Đông
Dương Học Xá để bắt cóc Sinh viên Phan Thanh Hòa, Tổng Hội Trưởng Tổng
Hội Sinh Viên, đem đi thủ tiêu. Lí do là Sv. Phan Thanh Hòa “công khai
chống sứ giả của Hồ Chí Minh là hai anh em Phan Anh, Phan Mỹ đến dụ THSV
nhập vào Mặt Trận Việt Minh. Hòa tuyên bố Tổng Hội đứng ngoài đảng
phái” (Ls. Lâm Lễ Trinh. Bài đã dẫn). Chiến thuật vừa lôi kéo mềm mỏng
vừa bạo lực, sắt máu của Việt Minh Cộng Sản đã khiến cho một số khá đông
thành viên Đảng Tân Dân Chủ ngả theo họ, trong đó có Sinh viên Lưu Hữu
Phước và một nhóm bạn sinh viên người Miền Nam khác. (Sinh viên Phan
Thanh Hòa là anh của Sinh viên Phan Thị Bình và là hậu duệ Cụ Phan Thanh
Giản. Sau này Sv. Phan Thị Bình kết hôn với Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn).
Về việc này, Gs. Nguyễn Ngọc Huy đã nhận xét: “Lưu Hữu Phước thuộc
thành phần đảng viên Tân dân chủ bị lôi kéo vào Đảng CS. Anh ta không đủ
khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra khỏi trường chánh trị như
Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt máu để được CSVN tin dùng như
Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không
có một khả năng đặc biệt về chánh trị mà CSVN có thể khai thác được như
Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đã
dùng anh ta như một văn công, sản xuất nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng
về các vấn đề khác những khi Đảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước
đã sáng tác bản nhạc Quốc dân hành khúc hay Tiếng gọi công dân lúc còn
là một sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là một văn công
của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Đảng CSVN mớm cho”
(Gs. Nguyễn Ngọc Huy. Bài đã dẫn).
Một số nhận xét
Ba luận giải trên đây cho thấy Quốc Hội Lập Hiến VNCH đã chọn bài
Sinh Viên Hành Khúc của Sinh viên Lưu Hữu Phước để làm bài Quốc ca vì đó
là một bài hát xuất sắc, đã được phổ biến rộng rãi, công khai và được
dân chúng từ Bắc tới Nam đón nhận nhiệt liệt vì bài hát phản ánh tình
yêu nước và ý chí chống giặc ngoại xâm của người dân Việt.
Xét về quan điểm chính trị, khi chọn bài này, Quốc Hội Lập Hiến VNCH
đã phân biệt rõ ràng có 2 Lưu Hữu Phước, một Lưu Hữu Phước trước khi
theo Đảng Cộng sản và một Lưu Hữu Phước sau khi theo Đảng.
Trước khi theo Đảng, Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là một nhạc sĩ trẻ, yêu
nước thuần túy, trong sáng và ông đã sáng tác ra những ca khúc ái quốc
bằng cảm hứng tự phát trong tự do tuyệt đối.
Sau khi theo Đảng, ông phải sáng tác theo lệnh Đảng, nhằm mục đích
tuyên truyền, không còn được tự do sáng tác như trước nữa. Ông trở thành
một “văn công”, không còn là một nghệ sĩ nữa. Đến ngay cả việc ông lên
Đài Phát Thanh Tiếng Nói Việt Nam (Hà Nội) để bác bỏ, giễu cợt và cả
mắng nhiếc về việc bài hát Sinh Viên Hành Khúc của ông “vẫn cứ bị người
bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác!” cũng không chắc do
ông tự nguyện hay là do lệnh bắt phải làm như vậy. Bởi vì sau này người
ta được biết cấp cao như Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng mà còn phải thú
nhận “Đ.m. tao cũng sợ nó, mầy biểu tao còn dám nói cái gì?” (Nguyễn Văn
Trấn. Viết Cho Mẹ Và Cho Quốc Hội.
Bản in ở Tp. HCM. Trang 303), hoặc “lừng danh thiên hạ” như Đại tướng
Võ Nguyên Giáp mà vào năm 1983 còn bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ hạ nhục bằng
cách bắt đi làm Chủ Nhiệm Ủy Ban Sinh Đẻ Có Kế Hoạch, huống chi cỡ Nhạc
sĩ Lưu Hữu Phước thì “sức mấy” mà dám chống lệnh Đảng.
Xin nêu một bằng chứng khác về thân phận “văn công” của Đảng viên Lê
Hữu Phước: Trong bài Lịch Sử Quốc Kỳ và Quốc Ca VNCH do NĐL tổng hợp,
đã trích lời của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước nói về bài Sinh Viên Hành Khúc
như sau: “Bài hát bí mật của chúng tôi được anh em sinh viên lấy làm bài
hát công khai. Anh em làm lại lời ca, và sau nhiều lần sửa đi sửa lại
và đấu tranh với Sở kiểm duyệt, phong trào sinh viên đã có bài hát của
mình tức là bài Tiếng gọi sinh viên, khi phong trào lan rộng, bài hát
được nhân dân tự động đổi là Tiếng gọi thanh niên” (Dẫn theo bài Lịch Sử Quốc Kỳ và Quốc Ca VNCH do NĐL tổng hợp. hoiquanphidung.com).
Chỉ có hơn ba hàng chữ mà Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã để lộ nhiều điều:
Một là dường như Nhạc sĩ sợ bóng sợ gió chi đó, cho
nên ông không nhìn nhận bài Sinh Viên Hành Khúc đã được ông sáng tác
năm 1939, hồi còn học Trung học Petrus Ký ở Sài Gòn với lời bằng tiếng
Pháp của ông và bạn ông là Mai Văn Bộ.
Hai là ông không dám nói đúng tên Tổng Hội Sinh
Viên Đông Dương mà lại nói “phong trào sinh viên”, trong khi chính Tổng
Hội Sinh Viên Đông Dương thời đó đã chọn bài hát của ông, sau khi đã sửa
phần lời, để làm bài hát của Tổng Hội Sinh Viên và đem ra trình diễn
nhiều lần trước các viên chức lớn Pháp, Việt và công chúng. Ông cũng
không nhắc tới Phong trào Thanh Niên Tiền Phong là Phong trào đã dùng
Bài Tiếng Gọi Sinh Viên làm bài ca chính thức vào năm 1945 với tên gọi
là Tiếng Gọi Thanh Niên.
Ba là ông không dám nhắc tới tên những sinh viên đã
góp công làm cho bài hát của ông được vang danh khắp nơi, như nhóm sinh
viên đã viết lời tiếng Việt cũng như tiếng Pháp cho bài hát; rồi những
người đã chọn, đã giới thiệu bài hát của ông, như Sinh viên Phan Thanh
Hòa (Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Sinh Viên), Sv. Nguyễn Tôn Hoàn (Trưởng
Ban Âm Nhạc của Tổng Hội), hay là hai Nữ sinh viên Nguyễn Thị Thiều (sau
này là vợ của Bs. Nguyễn Tú Vinh) và Phan Thị Bình (sau này là phu nhân
của Bs. Nguyễn Tôn Hoàn). Hai Chị Bình và Thiều là hai ca sĩ sinh viên
đầu tiên hát xuất sắc bài Tiếng Gọi Sinh Viên trước công chúng tại Hà
Nội.
Bốn là ông không đả động gì tới vinh dự lớn lao vì
bài hát của ông đã được các chính phủ Quốc gia trọng vọng, giữ nguyên
phần nhạc và viết lại phần lời ca cho thích hợp với tình hình mới, rồi
lấy làm bài Quốc ca.
Tóm lại, ông phủ nhận tất cả những tổ chức, những
nhân vật, những buổi lễ, những buổi trình diễn có dính dáng tới người
Pháp hoặc là những người bên phía Quốc gia đã trọng vọng và làm vinh
danh bài nhạc của ông.
Tuy nhận xét như thế, nhưng chúng ta cũng có chút hồ nghi. Hoặc giả,
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đã nhớ hết, đã muốn nói tới tất cả những chi tiết
kể trên, nhưng lời phát biểu của ông đã bị cơ quan kiểm duyệt của Đảng
cắt xén mất đi hoặc sửa chữa tùy tiện những chi tiết “nhạy cảm”. Việc
này rất có khả năng xẩy ra, vì trong chế độ Cộng Sản độc tài, mọi ấn
phẩm văn hóa, văn nghệ, hồi kí… đều bị kiểm duyệt về chính trị hết sức
gắt gao, nhất là những gì và những ai liên quan tới phía Quốc gia.
Một nhận xét khác, quyết định chọn bài Sinh Viên
Hành Khúc của Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước của Quốc Hội Lập Hiến VNCH còn là
một công nhận, một tán thưởng cao qúy dành cho lớp thanh niên, sinh viên
Việt Nam yêu nước chân chính, mà Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là đại diện thời
ấy, thời mà Việt Minh Cộng Sản chưa cướp được chính quyền từ tay Chính
phủ Trần Trọng Kim ngày 19.8.1945.
Sau hết, quyết định ấy, một trật, cũng phủ nhận cái
gọi là cuộc Cách Mạng Tháng Tám như Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn thường
rêu rao. Quả thực, Việt Minh Cộng Sản mới chỉ thành công trong việc cướp
chính quyền chứ họ chưa bao giờ thành công trong một cuộc cách mạng
đúng nghĩa. Bởi vì sau khi cướp được chính quyền, Đảng Cộng Sản và những
người đi theo họ, trong đó có Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, đã không theo đuổi
một cuộc cách mạng dân tộc mà lại tự nguyện làm chư hầu cho Liên Xô và
Tầu Cộng, để bằng mọi giá, quyết dùng dân tộc Việt Nam để làm cuộc cách
mạng vô sản. Đến nay thì rõ ràng cuộc cách mạng vô sản ở nước ta đã hoàn
toàn thất bại mọi mặt, chỉ trừ chuyên chính vô sản, dối trá và bạo lực
là còn nguyên như bản chất cố hữu của những con người Cộng Sản và họ
hiện nguyên hình là một nhóm lợi ích độc quyền mà thôi.
Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, văn minh, khai phóng chỉ thành công
rực rỡ ở Miền Nam với thể chế Cộng Hòa trong một thời gian ngắn ngủi 20
năm, và đã phải tạm chấm dứt vào ngày 30.4.1975. Đến nay, cuộc cách mạng
ấy còn ở trước mắt, nó nằm trong tay toàn dân, nhất là giới trí thức,
những nhà tranh đấu dân chủ và ở trong tay thế hệ trẻ Việt Nam.
Tháng 11. 2013
Bạch Diện Thư Sinh