Cuộc
đối đầu hiện tại giữa Trung Quốc và Việt Nam là kết quả của một mối
quan hệ đắng cay lâu dài giữa hai quốc gia. Lần cuối cùng Hà Nội và Bắc
Kinh đã vận lộn nhau trong cuộc chiến mà con số thương vong lên đến cả
chục ngàn.
Cơn giận dữ âm ỉ từ lâu trong lòng người Việt nay bùng lên cuồng nộ
khắp các vùng xung quanh thành phố Hồ Chí Minh. Hàng ngàn người tràn vào
các khu công nghiệp, phá bất cứ nhà máy nào mà họ nghi là do người
Trung Quốc làm chủ.
Sau hơn hai thập kỷ của hòa thuận, giờ đây Bắc Kinh và Hà Nội lại trở nên hận thù.
Đầu tháng này, Trung Quốc quyết định đưa giàn khoan khổng lồ của công
ty quốc gia vào vùng biển thuộc chủ quyền Việt, chứng tỏ Trung Quốc
chẳng còn mặn mà tha thiết gì với mối quan hệ giữa hai nước nữa.
Tuần trước, những tờ báo lớn của Trung Quốc đã lớn tiếng sỉ vả một
cách công khai người láng giềng phương nam rằng Việt Nam xứng đáng được
dạy một bài học thứ hai. Ngôn ngữ gần giống như Đặng Tiểu Bình đã thề
vào năm 1978 là dạy cho Việt Nam một bài học. Nhưng hồi âm thì vô cùng
bất hạnh, bởi vì hàng chục ngàn binh sĩ bỏ mạng.
Cũng giống như bao nhiêu người Việt thuộc thế hệ của bà Dim 75 tuổi,
vẫn còn nhớ rõ. Mờ sáng ngày 17 tháng Hai năm 1979, bà còn đang yên giấc
với chồng và các con trong căn nhà nhỏ ở một làng phía bắc thị xã Cao
Bằng thì bầu trời như muốn xé rách bởi tiếng đại bác.
“Chúng tôi không còn thời gian để mang đồ đạc. Tôi chỉ còn biết chạy,” bà Dim kể lại.
Thế là bắt đầu một cuộc sống vô gia cư kéo dài hai năm. Cả gia đình
đói khổ lang thang quanh những ngọn núi ăn xin, và tìm nơi trú ngụ. Mặc
dù chiến tranh đã kết thúc hàng thập kỷ, bà vẫn rùng mình căm ghét Trung
Quốc.
“Tôi vẫn còn căm thù chúng nó,” bà Dim nói. “Tôi vẫn còn sợ bọn Trung
Quốc, thậm chí ngay cả bây giờ. Tôi không biết khi nào tôi sẽ phải chạy
nữa”.
Những kỷ niệm chính thức ở Việt Nam được lựa chọn rất kỹ lưỡng. Trong
khi cả nước rềnh rang tự hào ăn mừng chiến thắng đánh Pháp và Mỹ, thì
Hà Nội giữ im lặng về cuộc chiến Việt – Trung. Báo chí của Trung Quốc
còn im lặng hơn. Song, không thể bịt miệng đươc người Việt đang trong
cơn sục sôi với kẻ thù lịch sử.
Những năm sau khi Mỹ rút ra khỏi Đông Dương, mối quan hệ giữa các
quốc gia láng giềng xã hội chủ nghĩa trong vùng trở nên đắng chát.
Campuchia, một đồng minh thân cận của Bắc Kinh, đã mở những cuộc tàn sát
đẫm máu nhằm vào cộng đồng người Việt ở dọc đường biên hai nước, buộc
quân đội Việt Nam lật đổ chế độ Pol Pot, đoạn tuyệt với Bắc Kinh, đến
gần hơn với Liên Xô.
Mùa đông năm 1978, khi Đặng Tiểu Bình quyết định dạy “bài học”, hơn
80 ngàn quân Trung Quốc đã vượt biên giới vào Việt Nam. Thứ trưởng Quốc
phòng Trung Quốc Su Yu huênh hoang rằng sẽ vào Hà Nội trong tuần lễ.
Nhưng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa, trang bị thô sơ và thiếu kinh
nghiệm trận mạc, đã gặp phải một sự chống cự ác liệt, cùng với một địa
hình hiểm trở. Trung Quốc đã bị xơi tái bởi những lực lượng bán quân sự
địa phương, từ những vị trí truyền thống hàng thế kỷ chống kẻ thù xâm
lược phương Bắc.
“Nhiều lính Trung Quốc chết bởi vì cách tác chiến rất lạc hậu,” cựu
quân nhân Việt Nam Nguyễn Hữu Hùng, người đã chứng kiến cảnh Quân Giải
phóng Nhân dân Trung hoa dùng chiến thuật biển người đã bị thiêu rụi ở
Lạng Sơn. “Họ chỉ biết dàn thành hàng rồi xông lên … không thể lùi.
Cuộc chiến kéo dài sáu tuần lễ, Bắc Kinh gọi đó là “cuộc đánh trả tự
vệ”, “dạy cho Việt Nam một bài học”, thật ra đã trở thành bài học đắt
giá cho cả Trung Quốc. Những thống kê về thương vong chưa bao giờ được
tiết lộ ở cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc. Những nhà phân tích đoán
rằng phía Trung Quốc có khoảng 50 ngàn chết trong cuộc đụng độ này.
“Tôi nghe Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam một bài học, nhưng tôi
không thấy bài học gì cả,” ông Hùng nói. “Công việc của chúng tôi là
chiến đấu chống họ. Thương tổn mà họ phải chịu là rất khủng khiếp.”
Khi Trung Quốc bắt đầu cuộc rút quân vào đầu tháng Ba, họ áp dụng một
chính sách tàn phá vô cùng man rợ. Tất cả những gì còn đứng thẳng đều
bị đánh gục, mọi vật thể còn sống đều bị giết. Họ gieo rắc những tội
lỗi, đắng cay khôn cùng.
Giống như bà Dim, bà Nhung (59 tuổi) sợ rằng một ngày nào đó Trung
Quốc quay lại. Mù chữ và đói nghèo, những người dân tộc Tày vẫn còn nhớ
rõ quân Trung Quốc đã thu gom tất cả lương thực từ những làng xung quanh
rồi đốt ngay trước mắt họ. “Lửa cứ cháy rừng rực, mười ngày sau vẫn
chưa tắt,” bà Nhung còn nhớ.
Khi cuộc chiến bắt đầu, bà Nhung đã ẩn nấp trong hang đá, cách biên
giới chỉ vài dặm. Có 14 người làng sống sót ở đây. Thỉnh thoảng họ lẻn
ra ngoài tìm kiếm chút thức ăn.
“Nếu Trung Quốc thấy ai trên đường là bắn ngay,” bà Nhung kể. Hiện
giờ bà đang bán khoai lang nướng và nuớc trà cho khách đến thăm cái hang
đá nơi bà đã từng trú ẩn.
Đến năm 1991, Việt Nam đã bước vào năm thứ năm sau đổi mới, nên cần
bạn. Khối Liên Xô sụp đổ tan tành, còn Mỹ vẫn đang cấm vận, Trung Quốc
đang lên. Hà Nội hàn gắn lại với Bắc Kinh. Hai thập kỷ đã qua đi, hai
đất nước cùng độc Đảng Cộng sản lãnh đạo gìn giữ mối quan hệ “như môi
với răng,” như họ đã từng tuyên bố.
“Cả hai giờ đây cùng một thử thách,” Tim Huxley, giám đốc Viện Nghiên
cứu Chiến lược Quốc tế, nói với phóng viên của Time. “Tôi nghĩ, họ
(Việt Nam và Trung Quốc) có một sự thông cảm với nhau. Họ cùng tìm cách
để cải tổ nền kinh tế và xã hội.”
Tuy vậy, mối quan hệ cứ tiếp tục xấu đi – Bắc Kinh tham vọng chiếm phần lớn biển Đông.
Khoảng 24.7 ngàn tỷ feet khối khí thiên nhiên và 4.4 ngàn tỷ thùng
dầu thô đang chờ người mở nắp. Kinh tế tương lai Việt Nam lệ thuộc vào
khoản tài nguyên này.
“Đảng được cái gì? Không có bầu cử tự do. Người lãnh đạo cũng không
mang bóng dáng của Hồ Chí Minh,” Carlyle A. Thayer, một giáo sư thuộc
Đại học New South Wales và là một chuyên gia về Việt Nam nói. “Nó mang
một chút vết tích của chủ nghĩa dân tộc, của sự vùng lên chống xâm lược
và cả sự phát triển kinh tế.”
Thảng hoặc, có những cuộc phản đối Trung Quốc trong vài năm gần đây.
Những làn sóng phản đối, chỉ trích Đảng quá yếu kém và nhu nhược trước
một sự lớn mạnh và ngang ngược của Trung Quốc.
“Nếu lãnh đạo đã hy sinh sự toàn vẹn lãnh thổ để đổi lấy tình đoàn
kết cùng lý tưởng với Trung Quốc, đó là hành vi đáng chê trách của
đảng,” Nayan Chanda, trưởng ban biên tập của tạp chí online Yale Global
đã nói.
Năm 2013, Chính phủ Việt Nam bắt 40 bloggers và những nhà hoạt động
khác chỉ vì họ phê phán thái độ nói trên. Cho đến nay hơn 30 người vẫn
còn bị giam giữ, theo thống kê của Tổ chức Báo chí không Biên giới.
Nhưng tuần trước sự va chạm xung quanh vụ giàn khoan, chính phủ Việt
Nam đã chọn một phương pháp cứng rắn với Bắc Kinh. Trong Hội nghị Thượng
đỉnh ASEAN ở Burma, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã lên án Trung Quốc là
“vu cáo Việt Nam và làm leo thang những căng thẳng trong vùng.”
“Lãnh thổ quốc gia là thiêng liêng,” thủ tướng nói với nguyên thủ
khác. “Việt Nam kịch liệt phản đối những hành vi xâm phạm và sẽ bảo vệ
chủ quyền quốc gia, cùng những quyền lợi tuân theo luật pháp quốc tế.”
Những cuộc biểu tình rộng lớn đã được phép trên toàn quốc, và những
tờ báo, lần đầu tiên trong những năm gần đây, được phép tường thuật.
Trên trang mạng xã hội, người sử dụng đã gọi “Tàu kiêu ngạo” và sẵn sàng
đổ máu với Trung Quốc.
Cựu chiến binh Hùng bộc lộ sự cẩn trọng hơn. Ông ta hiểu cái gì sẽ
xảy ra khi cả hai phía cùng đẩy nhau tới bờ vực của chiến tranh. “Tôi
không nghĩ thế hệ trẻ hiểu rõ về chiến tranh,” ông Hùng nói.
Nhưng ngay cả với ông Hùng, người đang làm ăn ở miền Nam Trung Quốc,
người chẳng bao giờ quan tâm đến chính trị, nhưng ông sẽ khoác áo lính
không chút do dự nếu Trung Quốc đến một lần nữa.
“Tất nhiên,” ông Hùng nói với giọng đanh thép. “Bởi vì tôi là người Việt Nam”
(Phỏng dịch từ bài viết của David Stout, Time magazine, May 15, 2014)
© Trần Hồng Tâm
© Đàn Chim Việt
© Đàn Chim Việt