12bếnnước: Chuyện của tác giả Võ Đắc Danh kể về những vụ cưỡng chế từ mấy năm trước, cướp của những người đã từng một thời góp phần tạo dựng nên đảng của họ. Thử hỏi những người miền Nam bị đầy đi vùng kinh tế mới, họ phải dùng sức để cày xới những mảnh đất, sau này có bị giải toả qui hoạch, có ai lên tiếng cho họ không? Nếu không có "Qủa bom Tiên Lãng" thì cũng chẳng ai biết những việc cưỡng chế đã xảy ra như thế nào trên đất nước VN từ bao năm qua, cũng chằng ai biết được bọn tham quan hành xử ra sao, và luật pháp có chỗ sai chỗ hở như thế nào. Tác giả VĐD cầu cho chuyện đã qua và không có thực, có lẽ tác giả phải viết lại và bỏ đi câu "cầu trời".
Cầu trời đây chỉ là những chuyện đã qua hoặc hy vọng nó không bao giờ có thực… NHvcv
Ông
Tư Hảo có một dáng đi lầm lũi, âm thầm như một người tuyệt vọng. Chiều
hôm ấy, khi rời khỏi nhà ông, nắng đã tắt dần, xe chạy rất xa nhưng tôi
ngoảnh lại vẫn còn thấy ông đứng lặng người như trời trồng trước sân
nhà. Ông đang nghĩ gì ? Nghĩ về vợ ông và đứa con trai đang bị giam
trong khám Chí Hòa ? Hay đang nghĩ về cái quyết định cưỡng chế khu đất
dưới chân ông ? Nghĩ về một phương án đấu tranh để cứu lấy vợ con, cứu
lấy đất đai, cứu lấy sự sống cho cả gia đình ? Cũng có thể là tất cả,
tất cả những suy nghĩ, những bế tắc đang dồn nén ông trở thành điên
loạn. Liệu ông có thể nhập viện tâm thần như anh Tạo chăng ? Hôm anh Tạo
dựng lại túp lều trên nền nhà vừa bị chính quyền cho xe ủi thành bình
địa, ông Hảo còn mang đến cho anh chiếc ghế bố. Rồi khi anh Tạo lên cơn
điên, bị đưa đi nhập viện tâm thần, ông lặng người nhìn theo mà rưng
rưng nước mắt. Lẽ nào bây giờ lại đến lượt ông ?
Tôi
nhìn ông đứng đó như trời trồng mà hoang mang lo sợ, có một chút ân hận
vì mình đã nghĩ xấu về ông. Hôm ấy, lần đầu tiên tôi gặp ông trong quán
cà phê Guitar, người phụ nữ ngồi cạnh ông cho tôi biết: “Đây, xin giới
thiệu với nhà báo, ông nầy là đặc công rừng sác, danh hiệu bốn mươi năm
tuổi Đảng, nhưng vợ con vừa bị bắt giam, nhà cửa đất đai sắp bị cưỡng
chế”. Tôi vừa mở cặp lấy sổ tay ra thì ông vội bỏ đi. Tôi năn nỉ ông
ngồi lại, những người khác cũng năn nỉ ông ngồi lại, nhưng ông cương
quyết bỏ đi, cái dáng đi lầm lũi, âm thầm như một người tuyệt vọng. Mấy
người phụ nữ trong quán nói dỏi theo một cách chua cay rằng
ông nhu nhược, thà để vợ con ngồi tù, thà để nhà cửa, đất đai bị cưỡng
chế chớ không dám đấu tranh, sợ bị khai trừ ra khỏi Đảng. Hôm sau tôi
gọi điện xin gặp ông, ông từ chối: “Thanh tra Chính phủ còn không can
thiệp được, báo chí các anh thì làm được gì ?”. Rồi ông cúp máy.
Những
ngày sau, tôi tiếp tục lần mò lên quận 9, cuối cùng thì tôi cũng tiếp
cận được ông. Thật ra, không phải ông im lặng vì sợ mất cái danh hiệu
bốn mươi năm tuổi Đảng như bà con láng giềng đã nghĩ. Ông đang tuyệt
vọng, ông đang bị mất lòng tin, ông đang bị tổn thương, cái vết thương
đau đớn gấp ngàn lần so với những vết thương trên cơ thể ông thời chiến
tranh bom đạn. Sau khi nghe câu chuyện về cuộc đời ông, tôi chợt nghĩ
rằng, trong hơn ba ngàn nạn nhân bị mất đất ở khu công nghệ cao nầy, có
lẽ ông Tư Hảo là người bị đối xử tàn tệ nhất, cạn tàu ráo máng nhất so
với sự cống hiến, sự hy sinh của một đời người, một gia đình ba đời mang
áo lính.
Ông
ngậm ngùi nhớ lại, năm 1966, tại Hải Phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến
tiễn đưa đoàn chiến sĩ đặc công của ông vào Nam. Một chai kem đánh
răng, một cây bàn chải, một chiếc khăn lau mặt, những lời căn dặn mộc
mạc, ân cần mà thiêng liêng vô bờ bến. Cha ông, một cựu chiến binh, một
cựu tù binh đầy khí phách đã nói với ông, ngắn gọn mà nghiêm khắc:
“Không được hàng giặc dù bất cứ hoàn cảnh nào”.
Đặc
công rừng sác anh hùng ! Tám mươi phần trăm nằm lại chiến trường, ông
Tư Hảo trở về với hàng chục vết thương, hàng chục Huân chương, Huy
chương, bằng khen, giấy khen của một thời vào sinh ra tử. Ông thấy mình
may mắn hơn, hạnh phúc hơn nhiều bạn bè, đồng đội. Có những người giành
lấy cái chết thay ông. Đó cũng chính là món nợ máu xương mà ông phải trả
bằng nỗi nhớ suốt đời, không thể nào quên. Ông ra quân, cưới một cô
giáo cùng quê. Năm ấy – năm 1977 – ông về Hải Phòng bán ngôi nhà tổ được
hai cây vàng, mang vào Sài Gòn mua một căn nhà chật hẹp ở Tân Bình.
Những đứa con chào đời trong
cảnh ăn bo bo thay cơm. Là dân đặc công rừng sác, không quen sống giữa
phố phường chật hẹp, ông bán nhà, dời qua một khu phố cặp bờ sông Sài
Gòn để được lặn hụp, mò cua bắt cá, phụ với đồng lương của vợ để nuôi
con. Khi được tin ngôi nhà của ông nằm trong khu vực giải toả để xây
dựng cầu Thủ Thiêm, ông lùi ra ngoại thành, vừa có đất rộng, vừa gần gũi
với cá tôm. Đồng đội cũ của ông có những người khá giả đã giúp ông, mỗi
người cho mượn một ít để mua 1600 mét vuông đất rẫy giữa đồng, thuộc
“vùng bưng sáu xã”, phường Long Thạnh Mỹ, quận 9. Tại đây, cuộc sống có
lẽ thanh nhàn hơn, dễ thở hơn với một dãy chuồng heo, một ao nuôi cá,
đất trồng rau. Những đứa con lớn lên, học xong phổ thông thì ông Hảo lại
cho vào quân đội, âu cũng là cái nghiệp của dòng họ, gia đình. 1600 mét
vuông đất, ông tách ra 1000 mét, cắm cọc chia đều cho năm đứa con. 600
mét còn lại, ngoài ngôi nhà chung và phần đất chăn nuôi, trồng trọt, ông
Hảo xây một ngôi nhà nhỏ bên cạnh để thờ 121 liệt sĩ đặc công rừng sác.
Càng về già, dường như ông càng lùi sâu vào cõi tâm linh, cả ngày lẩn
đêm ông sống trong căn nhà nhỏ ấy, chăm lo nhan khói, chơi các loại đàn
dân tộc một mình, nhưng ông luôn có cảm giác rằng 121 đồng đội đang ngồi
quanh, thưởng thức những làn điệu của ông.
Cuộc
sống thanh bần như thế tưởng sẽ an phận đến cuối đời. Nào ngời, đất lọt
vào quy hoạch khu công nghệ cao. Làng xóm náo động lên với chuyện đền
bù, giải tỏa. Không hiểu người ta tính toán bằng cách nào mà toàn bộ đất
đai, nhà cửa, vườn rau, ao cá, chuồng heo của ông trị giá chỉ có 395
triệu đồng, nếu tính theo giá vàng thì chưa bằng một phần ba cái giá mà
ông đã vay mượn để đổ vô đây, giờ vẫn còn mắc nợ. Còn nếu so với giá đất
hiện tại thì con số ấy chỉ trên một phần mười. Người ta bảo ông lên ban
đền bù giải tỏa của quận để nhận tiền và ký biên bản bàn giao đất. Ông
hỏi giao đất rồi đi đâu ? Người ta nói ở đây chỉ làm công việc chi tiền
đền bù giải tỏa theo quy định của cấp trên, ông có thể lên cấp trên mà
hỏi. Ông làm đơn lên quận, năm lần bảy lượt, người ta nói thì cứ giao
đất đi, nếu chấp hành tốt thì sau nầy sẽ được mua một nền tái định cư và
một căn hộ chung cư, nếu thích thì ở, không thích thì bán lại cũng có
lời. Ông nhẫm tính, một cái nền tái định cư một trăm mét vuông giá một
trăm rưỡi triệu đồng, một căn hộ chung cư năm trăm triệu đồng, trong khi
cả một cơ ngơi của ông người ta chỉ trả chừng ấy cục tiền, lấy gì để
mua lại cái gọi là tái định cư ấy, rồi vợ chồng ông, rồi năm đứa con,
dâu rể, cháu nội cháu ngoại, rồi hương hồn của 121 đồng đội ông, nhét
vào đâu cho hết ? Ông hình dung một cuộc sống không có con heo, con gà,
con vịt, không có vườn rau ao cá thì đời ông chẳng khác con chim bị nhốt
trong lồng, và, nghiệt ngã hơn thế nữa là biết lấy gì để nuôi hơn chục
miệng ăn trong khi con cái ông phần đông là lính. Từ ngày vợ ông nghỉ
hưu, ông phải chạy vạy ngày hai buổi đi làm gác cổng cho một nhà máy
gạch ở Biên Hòa để kiếm thêm tiền thuốc tiền trà và tiền sữa cho đứa
cháu nội mới sinh.
*
Cô
Chín Coi ngậm ngùi nói, cách đây năm sáu năm, cô nghe người ta tuyên
truyền rằng, thành phố sẽ biến “vùng bưng sáu xã” nầy thành khu công
nghệ cao, cô hỏi công nghệ cao là gì ? Người ta nói công nghệ cao là . .
. đại khái là “Đô thị Internet”, là “Không gian kết nối toàn cầu”, nó
cao siêu lắm, có giải thích thì những người nông dân như cô cũng không
thể nào hiểu nổi. Nhưng muốn cho dân giàu nước mạnh thì phải có công
nghệ cao. Với công trình nầy, thành phố HCM sẽ “đi trước và về đích
trước” trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nghe
thế, không riêng gì cô Chín Coi mà bà con trong xóm cũng lấy làm tự hào.
Ít ra cũng phải vậy mới phù hợp với đạo lý uống nước nhớ nguồn, mới
xứng đáng với Tăng Nhơn Phú Anh Hùng. Tăng Nhơn Phú là thánh địa của hai
đơn vị đặc công rừng sác Anh hùng, là căn cứ của chiến khu B, của tiểu
đoàn 3, tiểu đoàn 4 phân khu Sài Gòn Gia Định. Nơi đây đã sinh ra những
người con Anh hùng của Tổ quốc: Trung tướng Đào Sơn Tây, Đại tá Trương
Văn Ngự, Đại tá Nguyễn Văn Hiển, biệt động Sài Gòn Lê Văn Việt, Nguyễn
Văn Tăng, đặc biệt là “Hùm xám” Bảy Bê đã trở thành nhân vật huyền thoại
Sáu Tâm trong bộ phim Biệt Động Sài Gòn.
Cô
Chín Coi dẫn tôi chui qua tấm vách ván mục trong căn nhà mục nát để cho
tôi xem dấu vết của căn hầm bí mật đã tồn tại trong căn nhà nầy ngót ba
chục năm, qua hai cuộc đấu tranh giữ nước. Bao nhiêu người từng trú ẩn
nơi đây, được lòng đất, lòng người chở che mạng sống, cô không nhớ hết.
Năm 1948, người anh thứ Hai của cô bị lính Tây chặt đầu tại cầu Bến Nọc.
Năm 1949, người anh thứ Ba và người chị thứ Năm của cô cũng tiếp tục hy
sinh. Mẹ cô, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Huỳnh Thị Cơ, trước khi qua đời đã
để lại cho cô 1700 mét vuông đất vườn và 2500 mét vuông đất ruộng. Bà
dặn, đất nầy là mồ hôi khẩn hoang và xương máu gìn giữ của gia đình,
không được bán, phải trùng tu lại cái hầm bí mật để làm di tích lịch sử
cho địa phương mình, gia đình mình.
Nghĩ
vậy, năm 2000, có người gạ mua phần đất thổ vườn của cô với giá 3,4 tỷ
đồng, cô không bán dù gia cảnh nghèo nàn. Cô nghĩ, bán thì sẽ làm tủi
vong linh mẹ, vả lại năm đứa con rồi sẽ ở đâu ? Chia cho mỗi đứa mấy
trăm triệu đồng rồi ăn xài cũng hết. Ở xứ nầy, từ ngày đất đai sốt giá,
không ít người phất lên rồi sau đó lại trắng tay, nghèo hơn cái thời
chưa bán đất. Hiểu thế, cô cắt đất ra chia đều cho năm đứa con. Thế rồi
đùng một cái, người ta gởi cho cô giấy quyết định thu hồi đất để giao
cho dự án khu công nghệ cao, toàn bộ đất đai và tài sản trên đất được
đền bù 560 triệu đồng, riêng 2500 đất nông nghiệp, người ta nói rằng đây
là đất biền, không có sổ đỏ nên không được đền bù. Trong phần đất thổ
vườn, có 180 mét vuông cô tách ra làm con đường nội bộ của gia đình, nay
bị xem là đất công, cũng không được đền bù. Ban đầu, người ta hứa sẽ
bán lại cho cô bốn nền tái định cư với giá 600 triệu đồng. Cô nghĩ, hai
khu đất của gia đình cô 4500 mét vuông, trị giá hàng tỷ, giờ đổi lấy 400
mét vuông, chỉ bằng một phần mười, nhưng phải bù thêm 40 triệu đồng. Cô
làm đơn đi kiện, cùng với bà con làng xóm đi lên Sài Gòn, ra tận Hà Nội
kêu oan, kết quả : Cô bị thu hồi lại ba nền tái định cư vì lý do đi
kiện !?
Dẫn
chúng tôi ra sau vườn, chỉ tay về phía một khu nhà máy mới xây, cô nói,
giọng chua xót đến tận cùng: “Chỗ đó, 2500 mét vuông đất nông nghiệp
của cha tôi canh tác từ năm 1953, đến năm 1962, cha tôi giao lại cho
tôi, tôi làm ruộng mỗi năm cũng được hơn trăm giạ lúa. Bây giờ họ nói
đất biền, không đền bù. Ủy ban huyện tịch thu, giao cho dự án khu công
nghệ cao, khu công nghệ cao bán mặt bằng cho công ty Allied của
Singapore, công ty Allied bán lại cho công ty Jabil của Mã Lai xây dựng
nhà máy sản xuất linh kiện điện tử. Đó là kết quả của một gia đình mấy
chục năm theo kháng chiến, mấy chục năm nuôi giấu cán bộ dưới hầm bí mật
. . . Vậy mà tôi tưởng xây dựng khu công nghệ cao, trước hết là để cho
đồng bào nghèo của vùng căn cứ kháng chiến được hưởng lợi . . . ai dè . . . bây giờ người ta coi coi đất quan trọng hơn dân.”
Chưa
có con số thống kê chính xác xem có bao nhiêu gia đình là nạn nhân của
khu đất được mệnh danh là “Đô thị Internet”, là “Không gian kết nối toàn
cầu” nầy. Chỉ biết rằng có hơn năm trăm hộ, sau nhiều năm đi gỏ cửa các
công đường đã được đón nhận bằng sự lạnh lùng vô cảm, họ ký tên vào
danh sách lập đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại sân vườn quán cà phê
Guitar để mong cầu cứu vong linh của vị Cha già dân tộc. Ngày ngày, họ
đến đó thắp nhang khấn vái, trao đổi, nghe ngóng thông tin, xem đây là
nơi để nương tựa vào nhau, và, cùng nhau đối phó trước những bất công.
Nhưng, bất công cứ càng ngày càng đe dọa nặng nề.
Tại
nhà ông Tư Hảo, ngày đêm vợ chồng ông thắp nhang khấn vái vong linh của
121 đồng đội, sống khôn thác linh, hãy vì ông, vì những người dân của
xóm làng nầy mà ra tay phù hộ, hãy giúp ông có đủ trí, đủ lực để chống
lại bọn sâu dân mọt nước, bảo vệ lẽ công bằng như ngày xưa chúng ta đã
từng kề vai sát cánh để giữ gìn từng tấc đất của non sông.
Ngày
22 tháng 11 năm 2007, theo lịch tiếp dân thường lệ của UBND quận 9,
khỏang 50 người từ quán Guitar kéo ra làm một cuộc biểu tình. Mục tiêu
của họ là yêu cầu chính quyền phải giải quyết thỏa đáng về giá đền bù,
về tạm cư và tái định cư trước khi thu hồi đất. Đi một đoạn đường thì
bất ngờ họ lọt vào vòng vây của hơn bốn trăm nhân viên công lực với đầy
đủ khi giới, trong đó có cả một chiếc xe phóng thanh kêu gọi bà con giải
tán, đừng nghe bọn xấu lợi dụng mà làm mất trật tự an ninh. Hôm ấy,
UBND quận 9 khóa cổng rào, nội bất xuất ngoại bất nhập. Khi đoàn người
biểu tình vừa đến cổng thì bất ngờ có mấy chục thanh niên mặc thường
phục nhào ra giật băng-rôn, khẩu hiệu, quốc kỳ và ảnh Chủ Tịch Hồ Chí
Minh một cách thô bạo. Bà con chống trả lại, hai bên ấu đả nhau, công an
vừa can thiệp, vừa quay phim để làm chứng cứ. Cho đến bây giờ, những
người ngang nhiên gây sự hôm ấy vẫn chưa rõ tông tích là ai, còn những
người chống trả lại thì bị bắt giam cùng một đêm 02 tháng 03 năm 2008,
tức là “bắt nguội” sau hai tháng mười ngày với tội danh “gây rối trật tự
công cộng”. Trong số mười người bị bắt ấy, có vợ và con trai ông Tư
Hảo.
Ông
Hảo cho rằng đây là một cái bẩy, một âm mưu, một trò ném đá giấu tay để
đẩy bà con vào tội gây rối trật tự công cộng. Nhưng dù là tội gây rối
trật tự công cộng - với mục đích đấu tranh đòi quyến lợi chính đáng của
những người nông dân tay trắng-thì sao lại phải vây bắt giữa đêm hôm
khuya khoắt ? Đêm ấy, khỏang 10 giờ đêm, công an quận 9 đến bao vây từng
nhà bắt 11 người, phần đông là phụ nữ. Riêng tại nhà ông Tư Hảo, có hơn
một trăm nhân viên công vụ tạo thành những lớp hàng rào thịt bao vây
nhà ông, bốn người công an không chế ông vào một góc tường, sau đó họ
đọc lệnh bắt vợ ông về tội gây rối trật tự công cộng rồi còng tay giải
ra xe. Sáng hôm sau, họ viết giấy mời anh Biền, con trai lớn của ông lên
huyện, lại đọc lệnh bắt rồi còng tay giải vô khám Chí Hòa. Chiều lại,
một anh phó công an quận và trưởng công an phường đến gặp ông để xin
lỗi, họ nói biết rằng làm như vậy là sai, nhưng vì lệnh của cấp trên,
mong ông thông cảm.
*
Tình
cờ trên đường đến quán cà phê Guitar, tôi gặp anh Minh dẫn hai đứa con
nhỏ chừng bốn năm tuổi. Hỏi đi đâu, anh nói đem hai đứa nhỏ đi gởi nhà
người quen để đi làm mướn. Hỏi sau không gởi cháu vào nhà trẻ, anh nói
trước có gởi, nhưng từ ngày mẹ nó bị bắt đến nay, hết tiền rồi, làm mướn
không đủ nuôi năm cha con. Hai đứa lớn, mười lăm, mười sáu tuổi cũng
phải nghỉ học để đi đan giỏ mướn. Tôi dúi vào tay anh mấy chục ngàn, coi
như bù vào một ngày công làm thợ hồ của anh để được nghe thêm một câu
chuyện đau buồn của một gia đình đang tan nát vì cái dự án Khu Công Nghệ
Cao trên Vùng Bưng Sáu Xã nầy. Vợ chồng anh Minh và chị Trang cưới nhau
năm 1989, khi ra riêng, được cha mẹ cắt cho 551 mét vuông đất vườn. Năm
1995, sau năm năm làm thuê tích cóp được một ít vốn, anh đào ao nuôi cá
và xây chuồng nuôi heo. Năm 1997, cơn bão Linda đi qua, tất cả trở
thành bình địa. Trong cảnh trắng tay, hai vợ chồng anh dắt hai đứa con
thơ lang thang đi làm phụ hồ kiếm sống. Ba năm sau, họ trở về dựng lại
nhà cửa. Lây lất được vài năm thì phải đối đầu với cơn sóng gió của dự
án Khu Công Nghệ Cao. Người ta nói vợ chồng anh không có hộ khẩu (đã bị
xóa vì đi kinh tế mới năm 1976 ) nên không được tái định cư, chỉ được
đền bù 121 triệu đồng và trợ cấp sáu tháng tiền tạm cư để thuê nhà trọ,
mỗi tháng 400 ngàn. Đó là khoảng tiền gọi là “nhân đạo” để vợ chồng anh
có thời gian tạm cư để đi tìm cuộc sống khác. Nhưng đi đâu ? Đi đâu với
121 triệu đồng cho một gia đình gồm hai vợ chồng với bốn đứa con, trong
khi mảnh đất mà anh đang ở trị giá gần hai tỷ đồng, nếu bán đi một nửa,
anh có thể xây được một ngôi nhà khang trang và còn chút vốn liếng để
làm ăn sinh sống, con cái được học hành một cách đàng hoàng.
Chị
Trang cùng với bà con trong xóm kéo ra quận đấu tranh, hy vọng sẽ được
xem xét lại. Nhưng không ngờ, trên con đường đi đòi quyền lợi chính đáng
ấy, chị bị đẩy vào nhà giam, cùng với mười người dân trong cái đêm kinh
hoàng 02 tháng 03 năm 2008. Anh Minh nghẹn ngào kể lại, đêm ấy, khoảng
mười giờ đêm, hơn ba mươi nhân viên công vụ đến bao vây nhà trọ và đọc
lệnh bắt chị Trang. Thấy vợ mình bị còng tay trong khi đang mặc đồ ngủ,
anh Minh năn nỉ nhà chức trách cho vợ anh thay bộ đồ khác kín đáo hơn,
nhưng họ không chịu, một mực giải ra xe. Anh hét lớn: “Tôi sẵn sàng chịu
còng tay thế mạng cho vợ tôi được thay quần áo”. Nhưng họ vẫm im lặng,
lôi chị đi trong tiếng khóc la của bốn đứa con.
“Vì
lợi ích quốc gia – anh Minh lại nghẹn ngào – nếu thật vậy thì trước hết
người ta phải biết coi trọng quyền lợi của người dân. Đằng nầy, vì lợi
ích quốc gia mà bao nhiêu gia đình phải tan nhà nát cửa, bao nhiêu
thường dân vô tội phải ngồi tù . . .”
Than
ơi ! Gia đình anh Minh vẫn chưa phải là số phận cuối cùng trên Đồng
Bưng Sáu Xã nầy. Ngồi cách chổ chiếc bàn của chúng tôi vài mươi mét bên
kia là anh Nguyễn Công Tạo, một người tan nhà nát cửa đến phát điên. Tôi
gặp anh sau khi anh xuất viện được gần hai tháng, bà con trong xóm nói
anh đã hết điên rồi, anh cũng nói với tôi như thế. Nhưng thỉnh thỏang
tôi lại thấy anh cười một mình, cười không thành tiếng, chỉ nheo mắt,
nhếch môi, nhưng ẩn sâu trong nụ cười vô cớ của anh như có một cái gì đó
thật não nùng, cay đắng. Tôi gặp anh vài lần, nghe anh kể, không phải
tôi không tin anh, nhưng tôi vẫn ngờ ngợ khi nghe anh kể về những ngày
điên loạn, lúc nhớ lúc quên. Vì vậy mà tôi phải mất nhiều thời gian để
tìm hiểu về anh qua những người hàng xóm, trong đó có dì Ba Thêu, một
trong những người tận tâm chăm sóc anh Tạo trong những lúc khốn cùng. Dì
Ba kể, anh Tạo là một thanh niên hiền lành, chất phác, ly dị vợ cách
nay hơn mười năm. Vợ anh dắt theo đứa con gái, anh nuôi đứa con trai.
Hai cha con sống trong căn nhà cấp bốn trên khu vườn tạp 300 mét vuông.
Hàng ngày, anh chạy xe ôm và bốc vác để nuôi con. Khi triển khai dự án
Khu Công Nghệ Cao, người ta đền bù cho anh cả nhà lẩn đất chỉ 97 triệu
đồng. Song, cũng ngay trên mảnh đất nầy, người ta bán lại cho anh cái
nền tái định cư 100 mét vuông với giá 160 triệu đồng. Thấy chuyện vô lý,
anh đi kiện. Rồi một hôm, sau một ngày vác đơn đi kiện trở về thì ngôi
nhà của anh đã bị san lắp thành bình địa, nghĩa là anh bị cưỡng chế vắng
mặt. Trước mắt anh chỉ còn lại một đống tường gạch ngổn ngang, đổ nát,
cây cối bị chặt phá hoang tàn. Tất cả vật dụng trong nhà bị dân ve chai
lấy hết. Chỉ còn con chó từ đâu lần mò tìm về mừng chủ trong ánh mắt hốt
hoảng, thất thần.
Kiên
quyết không giao đất, anh dựng lại túp lều bằng mấy tấm bạt nylon, bà
con hàng xóm thương tình, người cho anh tấm đệm bàng, kẻ cho cái mùng
cũ, vài bộ quần áo cũ và một bình đựng nước. Nhưng mấy ngày sau, chính
quyền quận 9 đưa xuống 200 nhân viên công lực cùng với phương tiện cơ
giới để cưỡng chế lần thứ hai. Và lần nầy, họ dùng kobe
đào nát mảnh đất của anh thành những đường mương cắt ngang cắt dọc để
anh không còn nơi dựng lại túp lều. Cha con anh Tạo cùng với con chó dắt
díu nhau qua gốc cây của người hàng xóm để tạm cư. Cảm thương cảnh màn
trời chiếu đất của anh, ông Tư Hảo mang đến cho anh chiếc ghế bố cũ.
Ngày chạy xe ôm, đêm về hai cha
con nằm xoay nghiêng trên ghế bố dưới gốc cây, bên cạnh sự bảo vệ, chở
che của con chó trung thành. Thế nhưng tai họa nối liền tai họa, thằng
con trai của anh bị tai nạn giao thông ngoài xa lộ, được người dân tốt
bụng ở địa phương đưa đi cấp cứu trong bệnh viện Gia Định. Dì Ba Thêu
cùng với bà con hàng xóm vận động nhau góp tiền chạy lo cho đứa bé. Anh
Tạo bắt đầu quẩn trí, người ta thấy anh thức suốt đêm, ngồi bên cạnh con
chó trên nền nhà cũ, miệng nói lảm nhảm, chửi bới lung tung, mắt long
lên, thần sắc khác thường. Rồi anh mài dao, múa như múa kiếm, miệng la
hét “chém chúng nó”. Không ai dám gần anh ngoài con chó trung thành. Sau
vài ngày thì anh hiện nguyên hình của một người điên, đốt lều, đốt cây
cỏ, đập phá, chửi bới. Có lúc trời nắng như thiêu, anh để mình trần, đầu
trần ngồi lặng người trên nền nhà cũ, bổng dưng anh ngước mặt lên trời,
cất tiếng kêu một hồi dài, tiếng kêu ú ớ như tiếng chó tru.
Không còn cách nào khác, gia đình và hàng xóm xúm nhau đưa anh vào bệnh viện tâm thần.
Chúng
tôi trở lại quán cà phê Guitar lần sau cùng thì thấy anh Tạo đã tỉnh
táo, con trai anh cũng lành bệnh trở về. Chỉ có con chó là biệt tăm. Anh
Tạo rầu rĩ nói: “Trong cảnh không nhà, không chủ, sống lang thang không
nơi nương tựa, biết nó đã lọt vào tay ai. Nếu còn sống thì nó đã về.
Chó là con vật trung thành, không bao giờ phản chủ”. Hai cha con anh Tạo
mắc hai chiếc võng dưới tấm lều bạt trong vườn bạch đàn của ông Lộc,
cha anh, ngày đi kiếm việc làm thuê, đêm về ngủ võng. Tài sản là một
bình nước cột dưới gốc cây, phía trước túp lều. Tôi vừa mừng cho sự tỉnh
táo của anh Tạo thì cũng bắt đầu lo cho ông Tư Hảo khi thấy ông bước
vào quán, miệng nói lảm nhảm: “Ba mươi năm trước, tao về đây giải phóng
Sài Gòn. Bây giờ, người ta không cần tao nữa, nhưng người ta cần đất của
tao. Đất của tao có giá hơn tao. . .”
Phần
đất của ông cắt cho người con trai lớn - tức anh Biền đang bị tạm giam –
đã bị giải tỏa, ngôi nhà thờ 121 liệt sĩ của ông đã bị kober đập thành
bình địa. Phần còn lại không biết sẽ tồn tại được bao lâu nữa. Cách nay
mấy hôm, ông được vào thăm vợ. Thấy vợ tiều tụy, xanh xao, ông đã không
cầm được nước mắt. Đêm ấy, ông ngồi một mình bên chai rượu đến hai giờ
khuya. Rồi bất thần, ông gọi điện thoại sang nhà chị Nga hàng xóm, một
hai bảo chị phải đến nhà ông gấp. Chị Nga vượt hơn hai cây số trong đêm
chạy qua, thấy ông xếp sẵn hai bộ quân phục, gắn đầy những chiếc huy
chương lên ngực áo, ông nói: “ Em giữ giùm anh hai bộ đồ nầy, chờ vợ anh
ra tù trao lại cho bà ấy giùm anh”. Chị Nga vừa khóc, vừa van xin ông
hãy bình tĩnh để tiếp tục làm tròn bổn phận của người chồng, người cha
trong một gia đình đang điêu đứng. Nghe đến trách nhiệm ấy, dường như
ông tĩnh lại.
Sau
câu chuyện chị Nga kể, tôi nhìn ông Hảo và tự hỏi, liệu ông còn tĩnh
được bao lâu khi tài sản của ông tiếp tục bị đe dọa và vợ con ông tiếp
tục ngồi tù.
Trên đường về, đầu óc tôi cứ quay cuồng trong câu hỏi: Lẽ nào người ta cần đất hơn cần dân ?
Sài Gòn, tháng 6 năm 2008