Đạo Khổng của bá quyền đại Hán được Hồ Cẩm Đào tô vẽ lại để thay thế chủ nghĩa "Mác - Lê, Tư tưởng Mao Trạch Đông"
Nhiều báo chí Tây phương cho sở dĩ Trung Quốc ngày nay có trật
tự xã hội, ổn định chính trị và kinh tế phát triển là vì Đặng Tiểu Bình
đã biết khôi phục tư tưởng Khổng giáo để thay thế cái chủ nghĩa đã đưa
Trung Quốc tới bờ vực thẳm là chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Tư tưởng Mao Trạch
Đông. Có người còn cho là Đặng Tiểu Bình chỉ sao chép lại phương cách
canh tân nước Nhật của Minh Trị Thiên Hoàng, kết hợp truyền thống Khổng
giáo với kỹ thuật Tây phương. Nhưng sau Đặng Tiểu Bình, không phải Giang
Trạch Dân mà là Hồ Cẩm Đào là người đã thực thi ý tưởng của họ Đặng một
cách có hệ thống khi vứt bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lê và cho ra đời
một chủ nghĩa mà nòng cốt là tôn ti trật tự Khổng giáo kết hợp với ý
tưởng hài hòa trong kinh Dịch, gọi là "Xã hội Hài hòa Xã hội chủ nghĩa".
Hồ Cẩm Đào cũng cho thiết lập ở nhiều nước trên thế giới những học viện
Khổng Tử với mục đích, không phải chỉ có những hoạt động văn hóa, mà
còn có sứ mệnh đề cao mô hình chính trị Trung Quốc để đối lại với mô
hình tự do dân chủ của Phương Tây trong cuộc tranh giành ảnh hưởng chính
trị và kinh tế ở các nước có nhiều tài nguyên mà Trung Quốc đang nhòm
ngó hay ở các nước đang phát triển.
ĐCSVN có tập theo Hồ Cẩm Đào, thay thế chủ nghĩa Mác - Lê Nin bằng đạo Khổng "Đổi mới" không?
Tôi nghĩ trước hết cần phải xóa bỏ sự nhập nhằng giữa Khổng giáo
trước đời Tần (551-221 TCN) và đạo Khổng từ đời Hán Vũ Đế (140-87 TCN)
để hiểu với ẩn ý gì Hồ Cẩm Đào muốn khôi phục lại những ý tưởng của đạo
Khổng đời Hán: Không ai biết tư tưởng thật sự của Khổng Tử là gì vì
những kinh sách của Khổng Tử và các môn đệ đã bị Tần Thủy Hoàng đốt hết.
Đạo Khổng sau này chỉ là sự bịa đặt của bá quyền Đại Hán lấy danh Khổng
Tử áp đặt trên đầu trên cổ dân tộc Trung Hoa và dân tộc những vùng đất
bị Tàu xâm chịếm một thể chế Trung ương tập quyền có một không hai trong
lịch sử thế giới. Hồ Cẩm Đào nắm cả ba chức vụ một lúc: Chủ tịch nước,
Tổng bí thư Đảng, Chủ tịch Quân ủy Trung ương, chỉ lấy lại cương vị của
một thiên tử ngày xưa mà triều đình là ĐCSTQ cũng với một hệ thống quan
lại là các bí thư Đảng đi từ các vùng "Tự trị" (nghĩa là các nước chư
hầu) tới các tỉnh quận, làng xã và mọi tổ chức trong xã hội.
Các nhà báo phương Tây cũng thiếu hiểu biết và mắc mưu tuyên truyền
của Trung Quốc khi cho là Nhật bản, Đại Hàn, Singapor, Đài Loan, vì đã
biết vận dụng tư tưởng Khổng Tử mà đã trở thành những con rồng châu Á.
Nhật Bản có một nền văn hoá riêng biệt không dính dáng gì với Khổng
giáo của Tàu. Cái hay của người Nhật là đã biết phối hợp nền văn hoá đó
với tư tưởng Tây phương để trở thành một nước hùng cường và đi đến dân
chủ. Các nước Đại Hàn, Đài Loan, Singapore cũng là những nước có lối tư
duy Tây phương, theo mô hình dân chủ Tây phương không dính dáng gì đến
truyền thống Khổng giáo chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình.
Trong bài viết này, tôi xin chứng minh:
- Không ai biết những tư tưởng thật sự của Khổng Tử là những tư
tưởng nào vì năm cuốn sách do chính tay Khổng Tử biên soạn (chứ không
phải sáng tác) gọi là Ngũ kinh đều đã bị Tần Thủy hoàng thiêu hủy cùng
với bộ Tứ thư gồm ba cuốn do các môn đệ Khổng Tử biên tập cộng với cuốn
Mạnh Tử do các đồ đệ Mạnh Tử viết 200 năm sau khi Khổng Tử mất.
- Không có bằng chứng những giáo điều nằm trong cuốn Luận ngữ được
viết lại dưới thời Hán Vũ đế là của Khổng Tử: những "chuẩn mực" giềng
mối của Khổng giáo như Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức quá là vô
nhân nếu không muốn nói là sát nhân, vô đạo đức, sơ đẳng hoá xã hội chỉ
có 2 hạng người, kỳ thị chủng tộc... và hoàn toàn mâu thuẫn với những ý
niệm về Thiên lý, về Tâm về Nhân còn nằm rải rác trong kinh Dịch, cuốn
sách có từ cả ngàn năm trước Khổng Tử.
- Nhật Bản không phải là nước theo Khổng giáo.
- Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội trong lịch sử nên cho tới bây giờ vẫn lệ thuộc tư duy đạo Khổng của Tàu.
1) Không ai biết tư tưởng đích thực của Khổng Tử là gì
Thử căn cứ vào Tứ thư và Ngũ kinh:
1° Ngũ kinh:
Gồm 5 cuốn sách có từ thời Khổng Tử còn sống: kinh Thi, kinh Thư,
kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Xuân thu. Nhưng chính Khổng Tử tự công nhận chỉ
sáng tác có 1 cuốn là kinh Xuân Thu:
Kinh Thi gồm những bài thơ của dân gian được Khổng Tử sưu tập.
Kinh Thư kể lại những truyền thuyết về những vị vua hiền
đức như vua Nghiêu vua Thuấn đối lại với những ông vua tàn ác như vua
Kiệt vua Trụ.
Kinh dịch nói lại những phương cách bói toán được đặt ra
từ cả ngàn năm trước thời Khổng Tử gồm những Vạch, liền (dương), đứt
(âm), được xếp với nhau tạo thành những Quẻ. Tất cả có 8 quẻ gọi là bát
quái biểu thị những biến hoá của âm dương. Khi soạn thảo thành cuốn sách
kinh Dịch, Khổng Tử chỉ cắt nghĩa thêm cho rõ ý nghĩa của những quẻ này
và hệ thống hóa nó, biến nó thành những khái niệm âm dương về sự sinh
thành và biến chuyển của vạn vật trong Lý Thái cực, tương đồng với Logos
của Héraclite và Vô thường của Phật, gần như cùng thời. Có thể nói
những khái niệm chính của triết học Trung Quốc nằm trong cuốn sách này.
Kinh Lễ chỉ chép lại những lễ nghi nhờ đó giữ được trật tự
phân minh trong xã hội. Thật ra những lễ nghi được bày đặt ra chỉ cốt
để che giấu những luật lệ pháp trị của một chế độ trung ương tập quyền
có từ đời nhà Tần được nhà Hán (Hán Vũ Đế 140-87 TCN) tiếp tục dưới một
bản hiệu khác.
Kinh Xuân Thu là cuốn sách duy nhất do Khổng Tử sáng tác và Khổng Tử rất ưng ý khi nói: "thiên hạ biết ta là cũng chỉ ở kinh Xuân Thu, người trách tội ta là cũng chỉ ở kinh Xuân Thu". Kinh này ghi lại những biến cố xẩy ra ở nước Lỗ và một vài sự việc của nhà Chu và các nước chư hầu.
Vấn đề là Tần Thủy hoàng đã tận diệt Khổng giáo, chôn sống học trò,
đốt hết kinh sách của Khổng giáo nguyên thủy, vậy thì Ngũ kinh mà người
Tàu và người Việt phải học từ 2000 năm nay chắc chắn chỉ là những cuốn
sách mạo danh Khổng Tử viết lại 400 năm sau khi Khổng Tử chết theo lệnh
của Hán Vũ đế. Chứng cớ là cụ Trần Trọng Kim có viết trong cuốn Nho giáo
(trang 191): "Nhưng vì kinh Thư bị nhà Tần đốt mất, đến đời nhà
Hán mới có quan bác sĩ đời nhà Tần là Phục Sinh (có người nói là con gái
ông ấy) nhớ thuộc lòng đọc được 29 thiên. Sau ở nước Lỗ lại tìm được
trong vách nhà Khổng Tử một tập 25 thiên viết bằng chữ cổ. Những thiên
của Phục Sinh đọc ra viết bằng kim văn, những thiên tìm được gọi là cổ
văn. Về sau quan bác sĩ là Khổng An Quốc đời Đông Hán xếp cả kim văn lẫn
cổ văn làm thành ra kinh Thư truyền đến ngày nay". Một người có
chút suy luận có thể tin được rằng một người con gái chưa xuất giá,
nghĩa là chưa đến tuổi cập kê (16 tuổi ta) học ở đâu mà có thể nhớ được
29 thiên viết bằng kim văn? Vô lý hơn nữa là 600 năm sau mà còn tìm thấy
trong vách nhà Khổng Tử 25 thiên viết bằng cổ văn! Nhà ngày xưa vách
làm bằng đất thó trộn rơm và chữ cổ viết trên các thanh tre (gọi là sử
xanh), làm sao tồn tại được 600 năm và tre chép sử không mục? Kinh thư
mà còn như vậy thi kinh Xuân Thu do đích danh Khổng Tử sáng tác có thể
chứa đựng những tư tưởng chính trị trái ý Tần Thủy Hoàng, vậy ai là
người không sợ Tần Thủy Hoàng chôn sống mà dám giấu diếm?
2° Tứ thư:
Gồm 4 cuốn. Cần nhắc lại đây cũng chỉ là những bản được viết lại
nhằm mục đích lợi dụng danh nghĩa Khổng Tử đề cao tôn ti trật tự vua
quan, gia đình, xã hội của bá quyền Đại Hán:
Luận ngữ: Cuốn sách chính trong bộ tứ thư ghi chép lại
những câu nói của Khổng Tử. Vì đệ tử chính của Khổng Tử là Tăng Tử và
các đồng môn nhớ được đến đâu viết đến đó nên thiếu mạch lạc và rất lộn
xộn và có nghĩa trái ngược nhau, chứng tỏ được thêm vào sau này. Những ý
niệm then chốt của Khổng giáo hậu Tần về quân tử, tiểu nhân, tam
cương, ngũ thường... đều nằm trong Luận ngữ.
Đại học: Thời Tăng Tử chỉ là 1 thiên trong sách Lễ ký được
Tăng Tử chích ra để giải diễn những lời Khổng Tử dạy phép làm người, dạy
sửa mình để trở thành quân tử. Đến đời Tống mới in riêng ra và chắc là
được thêm thắt nhiều để thành 1 cuốn sách.
Trung dung: Do cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp học trò của Tăng Tử soạn thảo ra. Theo Hán thư
sách này có 23 thiên bị thất lạc hết chỉ còn 1 thiên chép lại trong
sách Lễ ký đến đời Tống mới in riêng ra thành sách. Sách này nói về đạo
Trung dung: Trung là giữa không nghiêng lệch về bên nào và là cái tính
tự nhiên của trời đất và là đức hạnh của người quân tử vì muốn theo đạo
này phải đạt được 3 cái đức là trí, nhân, dũng. Trí là biết rõ các sự
lý, nhân là để hiểu điều lành phải làm, dũng là có khí cường kiện để làm
điều lành cho đến cùng. Có thể đó là đạo Trung dung thời Khổng Tử nhằm
mục đích tu thân để trở thành người minh triết, đạo đức, công bằng như
nghĩa "le sage" của Socrate Platon, "l'honnête homme" của Montaigne. Đạo
Trung dung đời Tống nhằm mục đích trở thành một siêu nhân gọi là người
quân tử để thắng thế bọn tiểu nhân rồi nắm quyền trị vì thiên hạ (Tề gia
trị nước bình thiên hạ). Ý niệm thành quân tử để bình thiên hạ chắc
chắn là được các triều đại Tàu từ Hán đến Tống thêm vào để biến 1 thiên
trong Lễ Ký thành 1 cuốn sách như trong trường hợp cuốn Đại học.
Mạnh Tử: Cuốn sách do các đồ đệ Mạnh Tử viết để gom lại
những lời giảng dạy của Mạnh Tử về Thiện và Tâm. Mạnh Tử sinh sau Khổng
Tử gần 200 năm, coi mọi người sinh ra đều bình đẳng vì ai cũng đã mang
trong người tính Thiện "nhân chi sơ tính bản thiện". Ý tưởng
bản tính Thiện có sẵn trong mỗi con người của Mạnh Tử tương đồng với
những ý niệm Thiện (le Bien) của Socrate, Platon và gần với ý niệm Phật
tính của Phật, trái với ý niệm của Khổng giáo là trời đất sinh ra đã có
2 hạng người quân tử và tiểu nhân. Ý tưởng của Mạnh Tử có vẻ "nhân đạo"
hơn và ít có tính cách chính trị hơn so với những sách kể trên, nên dầu
có được viết lại chắc cũng phản ánh đúng những tư tưởng của Mạnh Tử
hơn.
Nói tóm lại: Trong 5 cuốn Ngũ kinh chỉ có 1 cuốn do Khổng Tử sáng tác
là kinh Xuân thu. Cuốn thứ Hai gần Khổng Tử nhất là cuốn Luận ngữ do
học trò của Khổng Tử kể lại. Cuốn Mạnh Tử do học trò của Mạnh Tử viết
200 năm sau khi Khổng Tử chết không ăn nhập gì tới Khổng giáo cả. Hai
cuốn Đại học, Trung dung chỉ là 2 thiên của Lễ Ký đến đời Tống, 1500 năm
sau khi Khổng Tử mất mới được "bồi bổ" thành sách nên khó có thể coi đó
là những kinh sách của Khổng Tử được.
2) Không có bằng chứng những giáo điều, những chuẩn mực định đoạt thứ bực mọi thành phần trong xã hội nằm trong "Luận ngữ" như Quân tử - tiểu nhân, Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức, là của Khỗng Tử:
Quân tử - Tiểu nhân:
Khổng Tử trong Luận ngữ được viết lại dưới thời Hán Vũ đế phân biệt 2
hạng người trong xã hội: quân tử và tiểu nhân. Người quân tử là người
thuộc tầng lớp của vua ("quân" có nghĩa là vua, "tử" có nghĩa là con
vua). Người quân tử là người vì học đạo thánh hiền biết tu thân sửa mình
nên có tính khí cao thượng và được vua chọn đặt vào những địa vị tôn
quí trong xã hội thay vua trị dân. Tiểu nhân là người thường dân và đàn
bà, bị coi là không học đạo thánh hiền nên có tính khí hèn hạ. Đã học
đạo thánh hiền (đạo Khổng) để thành người quân tử thì phải có bổn phận
"hành đạo" nghĩa là ra làm quan thay mặt vua trị nước. Tiểu nhân và đàn
bà không được học hành sẽ không bao giờ thành người quân tử được, cả đời
sẽ chỉ là những người tiện dân hèn hạ phải phục tòng người quân tử.
Tam cương là 3 giềng mối, 3 mối quan hệ được bá quyền Đại Hán nhân danh Khổng tử đặt ra thành những quy tắc "chết người":
- Quân thần (vua tôi) người làm tôi bị vua "thắt cổ" bằng chữ Trung: "quân xử thần tử, thần bất tử bất trung".
- Phụ tử (cha con): cha "thắt cổ" con bằng chữ hiếu "phụ xử tử vong,
tử bất vong bất hiếu". Cha bảo con chết thì con phải chết. Con không
chịu chết là con bất hiếu. Lẽ tất nhiên là người Tàu trọng nam khinh nữ
chỉ bóp cổ con gái thôi như vẫn thường xảy ra ở bên Tàu hiện nay với
chính sách một con.
- Phu phụ (vợ chồng) "phu xướng phụ tùy". Chồng nói vợ phải theo.
Nhưng người đàn bà không phải chỉ phụ thuộc một người đàn ông mà ba
người đàn ông theo luật Tam tòng: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử". Khi còn con gái phải theo cha, khi đi lấy chồng phải
theo chồng, khi chồng chết phải theo con trai. Làm đàn bà Tàu khổ như
vậy, phải theo và phục tòng đàn ông từ nhỏ đến già như một kẻ nô lệ ngay
đối với cả con mình. Đó cũng còn may nếu sinh được con trai. Nếu không
có con trai hay chỉ sinh con gái sẽ bị đuổi ra khỏi nhà, chết vơ chết
vẩn ngoài đường.
Người đàn bà còn phải có 4 cái đức (tứ đức) để hầu hạ và chiều chuộng người đàn ông là:
+ công: khéo léo trong việc làm
+ dung: hoà nhã trong sắc đẹp.
+ ngôn: mềm mại trong lời nói.
+ hạnh: nhu mì trong tính nết.
Có cái ngược lý là tam tòng tứ đức chỉ trói buộc người đàn bà được
người quân tử "chiếu cố" chứ trái lại người đàn bà của kẻ tiểu nhân tức
là của tiện dân, lại có quyền trên chồng trên con hơn nhiều vì một lẽ
dản dị là phải làm ăn buôn bán, dệt vải, trồng dâu chăn tầm, kiếm đồng
tiền bát gạo nuôi chồng nuôi con.
Giữa người và người cùng trong một nước mà còn phân biệt thứ hạng và
giới tính như vậy thì đối với những dân tộc lân bang không cùng tộc
Hoa, Khổng Tử của nhà Hán còn tệ hơn nhiều khi nói: "Các nước Di, Địch dù có vua cũng không bằng Hoa Hạ (Trung Hoa) không có vua".
Quan niệm của người Trung Hoa coi nước mình là trung tâm của vũ trụ
chung quanh chỉ là những dân tộc man di mọi rợ đã tạo ra óc kỳ thị chủng
tộc và tư tưởng bá quyền trong đầu óc mỗi người Trung Hoa nên đã đến
lúc cần phải lấy lại tên quốc tế của nước Qin là Chine, China, phiên âm
theo tiếng Việt từ ngàn xưa là nước Tần (đọc trại là Tầu). Dân ta từ xưa
đến nay chỉ gọi nước Tàu, người Tầu, giặc Tần, giặc Ngô... Trong Nam
chỉ gọi "mấy chú chệt" (từ chữ chinois, chinetoque), mấy chú (trú) khách
(khách qua ẩn trú bên nước ta khi nhà Minh mất). Trong giấy tờ ngoại
giao tiếng Việt gọi China là Trung Hoa cũng đã là lịch sự lắm rồi. Từ
"Chung Guo" (Trung Quốc) chỉ nên để cho mấy người Tàu nói với nhau. Gọi
nước Tàu là Trung Quốc thì khác gì tự nhận mình là phiên bang.
Nói tóm lại ông Khổng Tử được Tàu coi là một ông thánh mà có những ý
nghĩ phân biệt giữa người và người, giữa dân tộc này với dân tộc khác,
khuyến khích cha giết con, người cầm quyền giết dân thì quá là ác độc
hơn Bin Laden bội phần! Ông Khổng này chỉ là ông Khổng của bá quyền
Trung Quốc bày đặt ra.
3) Nhật Bản chưa bao giờ là nước theo Khổng giáo. Việt Nam là nước độc nhất vẫn lệ thưộc tư duy đạo Khổng cho tới bây giờ
1° Người Nhật chỉ chọn lọc một vài ý niệm của Khổng giáo để thực dụng:
Người Nhật chỉ biết Khổng giáo qua chữ Hán từ đầu thế kỷ thứ V
thông qua người Cao Ly. Những người này trốn chạy xâm lược Tàu có mặt ở
Nhật từ đầu thế kỷ thứ III đem những kỹ thuật nông nghiệp, làm đồ sắt,
dệt vải truyền bá cho người Nhật (nước Nam Việt của Triệu Vũ Vương biết
những kỹ thuật này từ 200 TCN nên Lã hậu mới cấm bán nguyên liệu sắt cho
Nam Việt). Các nhà nho Cao Ly (lettrés, theo nghĩa biết viết chữ Hán)
dùng chữ Hán giúp Nhật làm văn khố, lập thư viện, giúp vua chúa Nhật tổ
chức hành chính phỏng theo Tàu. Chỉ bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII dưới
triều đại nhà Đường người Nhật mới thấy cần phải giao thiệp thẳng với
Tàu để học thêm: lập sứ quán ở Tràng An, lập những cư xá tụ tập từ 100
đến 200 người đủ hạng: sứ thần, nhà sư đi học đạo Phật, những người đi
học nghề, học kiến trúc, văn chương... Có cả thảy tới 5 trung tâm như
vậy luôn luôn đầy ắp người vì đi từng đội thuyền gồm 4 chiếc (thành ngữ
tiếng Nhật "tứ thuyền" có nghĩa là đi du học) luân phiên nhau chở người
đi qua Tàu học. Muốn học văn chương chữ Hán bắt buộc phải học tứ thư ngũ
kinh của Khổng giáo vì mọi chữ nghĩa đều nằm trong đó, nhưng không có
nghĩa là những người này sẽ đem đạo Khổng của Tàu áp dụng ở Nhật. Vả lại
dưới thời đại nhà Đường Khổng giáo bị đạo Phật lấn áp. Truyền thống học
hỏi và lợi dụng những hiểu biết của nước ngoài mà không lập lại y hệt,
vẫn được người Nhật tiếp tục từ khi bắt đầu tiếp xúc với Tây phương và
khi đi du học Tây Phương thế kỷ thứ XIX dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng.
2° Người Nhật không theo chế độ tôn quân quyền nên không tuyển người cai trị theo kiểu Khổng giáo:
Cái khác với Việt Nam là người Nhật học Khổng giáo không phải để bắt
chước Tàu mở kỳ thi tuyển quan lại cai trị dân thực thi chủ nghĩa Tôn
quân quyền như Việt Nam mà là để mượn văn tự Hán và lấy văn hoá Khổng
giáo bồi bổ cho nền văn hoá riêng biệt của mình là truyền thống Thần
đạo. Địa lý nước Nhật không phải như nước Tàu với những đồng bằng mênh
mông ở lưu vực sông Hoàng Hà cần phải có một cơ cấu hành chánh trung
ương tập quyền để kiểm sát dân và phân phối nước cho đồng ruộng. Khổng
giáo được bá quyền Đại Hán tạo ra là cốt để tuyển người phục vụ cái thể
chế đó. Nước Nhật gồm nhiều đồng bằng nhỏ bé phân cách nhau bằng nhiều
ngọn đồi chỉ có thể thông thương với nhau bằng đường biển nên nước bị
chia ra làm nhiều miền, mỗi miền có 1 dòng họ, 1 lãnh chúa (shogun) cai
trị, hay tranh giành nhau, đánh lẫn nhau. Cũng vì vậy cần phải có 1 ông
vua vô quyền đứng làm trọng tài hay đứng tượng trưng, và tuy được suy
tôn là Thiên hoàng, dân chúng phải thờ lạy, nhưng luôn luôn bị các lãnh
chúa bắt nạt. Tất nhiên là những Shogun (Đại tướng quân) luôn luôn đánh
lẫn nhau cần phải có sự hỗ trợ của một tầng lớp thượng võ dưới quyền là
tầng lớp Võ sĩ đạo (Samourai). Tầng lớp này coi văn là phụ và học văn là
cốt để thay mặt shogun cai trị dân. Khổng giáo ngược lại trọng chữ
thánh hiền khinh võ trọng văn...
Cũng cần phải nói thêm là Nhật chỉ mượn 1945 chữ trong số 80000 chữ
Hán để kết hợp với 45 vần Hiragana phiên âm tiếng gốc Nhật và 45 vần
Katakana phiên âm tiếng nước ngoài. Cách phiên âm này được 1 nhà sư Nhật
tạo ra cách đây 1000 năm. Nhờ vậy mà người Nhật không cần phải học hết
Tứ thư Ngũ kinh mới biết viết như Việt Nam. Công của nhà sư Nhật này
cũng ngang với công của giáo sĩ Đắc Lộ đã tạo ra chữ quốc ngữ cách đây
gần 400 năm.
3° Ý niệm "Trung hiếu", nòng cốt của Khổng giáo xa lạ với tâm thức người Nhật:
Như tôi đã nói trên, Thiên Hoàng chỉ tương trưng nước Nhật chứ không
có quyền hành gì. Một người lính Nhật thua trận tự rạch bụng tự tử là
vì thấy không làm tròn bổn phận đối với đất nước chứ không phải vì trung
với vua "quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" như cái chủ nghĩa
"quân thần" ác ôn này của Khổng giáo. Khổng giáo không có đất nước mà
chỉ có vua. "Trung với Đảng" cũng không ra khỏi cái nghĩa này.
Người võ sĩ đạo rạch bụng tự tử khi shogun của mình thua cũng không
phải vì hiếu với shogun là vì tự cảm thấy nhục không làm tròn nhiệm vụ
được giao phó. Hai người võ sĩ đạo đấu kiếm với nhau người thua yêu cầu
người thắng giết mình không thì cũng tự mổ bụng mà chết.
4) Việt Nam trong lịch sử đã bỏ lỡ nhiều cơ hội nên cho tới bây giờ vẫn không thoát khỏi tư duy đạo Khổng của nhà Hán:
Từ khi giành được độc lập cách đây hơn một ngàn năm cho đến nay,
Việt Nam có nhiều khả năng và cơ hội hơn Nhật để tự tạo ra một nền văn
hoá riêng biệt, thoát khỏi tư duy Tàu, hội nhập với Tây phương và trở
thành 1 nước lớn mạnh nhất Đông Nam Á. Nhưng vì quá nô lệ tư duy Tàu nên
mọi cơ hội đều đã bị bỏ lỡ:
1° Triều đại nhà Lý có công đánh Tống diệt Chiêm mở mang đất nước cho
tới Quảng Bình Quảng Trị, lập kinh đô Thăng Long, lấy đạo Phật làm quốc
giáo, lẽ ra phải biết kết hợp truyền thống thờ thành hoàng và thờ các
danh nhân, thờ tổ tiên với đạo Phật (không phải Đại thừa của Tàu) để làm
nền tảng cho 1 nền văn hoá riêng biệt như Nhật đã làm với Thần đạo, thì
lại bắt chước Tàu mở khoa thi (năm 1075) lấy lại đạo Khổng của Tàu làm
quốc giáo để tự chui vào cái gông cùm văn hoá tư duy Tàu.
2° Tiếp xúc với Tây phương từ thế kỷ thứ XVI cùng thời với Nhật, các
vua chúa đàng Trong cũng như đàng Ngoài (trừ chúa Sãi) đã không biết làm
như các Shogun Nhật, lợi dụng sự hiểu biết kỹ thuật của Tây phương để
cải tiến kinh tế, cải tiến kỹ thuật đi biển, mở rộng thông thương, phát
triển thương mại đưa đất nước đến thịnh vượng.
3° Nhưng cái ngu xuẩn nhất là đã không biết dùng chữ quốc ngữ để
thoát khỏi chữ Hán và tư duy Tàu. Các vua nhà Nguyễn sau này lại còn sợ
"tà đạo" Cơ đốc lợi dụng chữ quốc ngữ xâm nhập phá đạo thánh hiền của
Tàu nên ra sức giết đạo, bế quan toả cảng, khiến cho thực dân Pháp mượn
cớ bênh đạo hợp cùng với Y Pha Nho nổ súng xâm lăng đầu tiên ở Đà Nẵng.
Cho tới nay cũng vẫn có người nghĩ như các vua chúa nhà Nguyễn là mình
đã có chữ nôm rồi đâu cần phải dùng chữ quốc ngữ và Giáo sĩ Đắc Lộ (de
Rhodes) là gián điệp của Tây đã mở đường cho Tây xâm chiếm Việt Nam.
Những người này tỏ ra thiếu hiểu biết về hai điều: 1° De Rhodes tên thật
là Rueda gốc người Do thái Y Pha Nho sinh ở đất Giáo Hoàng chứ không
phải ở Pháp và chết 200 năm trước khi Pháp tới Việt Nam. 2° muốn viết
được chữ nôm thì phải biết chữ Hán 2 lần hơn người Tàu vì một chữ nôm
gồm 2 chữ Hán, 1 chữ tượng nghĩa, 1 chữ tượng âm.
3° Vừa thoát khỏi tròng thực dân Pháp thì lại tự chui đầu vào thòng
lọng Tàu, lao đầu vào một cuộc nội chiến kéo dài 20 năm vì cũng vẫn giữ
tư duy trung ương tập quyền của đạo Khổng : một nước không thể có 2 miền
Nam, Bắc, được. Không thấy là Nhật Bản nhờ có nhiều shogunat (Mạc phủ)
cạnh tranh nhau mà mạnh. Và sở dĩ đất nước Việt Nam được mở rộng tới tận
mũi Cà Mau và có một thời cai trị cả Lào và Cao miên, là vì có 2 mạc
phủ, đàng Trong (Nguyễn), đàng Ngoài (Trịnh).
Kết luận
Đã đến lúc ĐCSVN phải thay thế cái chủ nghĩa Mác - Lê Nin mà trong 4
nước gọi là cộng sản còn sót lại, chỉ Việt Nam còn giữ. Nhưng thay thế
bằng chủ nghĩa nào? Chỉ có hai giải pháp:
1° Bệ nguyên si cái chủ nghĩa "Xã hội Hài hòa Xã hội chủ nghĩa" của
Tàu đem về Việt Nam và chỉ cần thay chữ "hài hòa" quá Tàu bằng chữ "Hòa
giải" chẳng hạn. "Hòa giải Xã hội chủ nghĩa" nghe cũng rất kêu. Chắc
chắn là phái "Lãnh đạo" bảo thủ thân Tàu trong Đảng hoan nghênh giải
pháp này: Đảng vẫn giữ nguyên cơ cấu, vẫn bảo tồn được hệ thống lãnh
đạo, giành Quản lí nằm trong tay phái "Cầm quyền" cấp tiến. Cái khó là
ai là người trong phái này có bản lãnh như Hồ Cẩm Đào để vừa là Chủ tịch
nước vừa là Tổng bí thư Đảng để một ngày kia khống chế luôn cả phái
"Cầm quyền".
2° Làm một cuộc cách mạng nội bộ thay thế Marx - Lê Nin bằng Marx -
Engels, tháo gỡ bộ máy hệ thống "Đảng Lãnh đạo" để biến ĐCSVN thành một
đảng Dân chủ - Xã hội. Bước đầu tuy chưa chấp thuận đa đảng nhưng chấp
thuận trong thực tế đa nguyên trong Quốc hội, tự do báo chí, tự do thành
lập các nghiệp đoàn và các tổ chức xã hội dân sự. Chắc chắn là ĐCSVN
kiểu "Dân chủ - Xã hội" sẽ được quốc tế nhiệt liệt hoan nghênh và sẽ
được nằm trong danh sách những đảng Xã hội thành viên của Quốc tế Xã
hội chủ nghĩa (Internationale Socialiste) hậu thân của Đệ Nhị Quốc tế
thợ thuyền từ thời Engels. Cái khó là phải có một người trong phái Cầm
quyền (thủ tướng, chủ tịch nước, chẳng hạn) có đủ bản lãnh tháo gỡ bộ
máy lãnh đạo ký sinh trùng mà người đứng đầu là Tổng bí thư Đảng.
Nhưng giải pháp nào cũng còn hơn tình trạng giậm chân tại chỗ hiện
nay mà cái gọi là chủ nghĩa Mác - Lê Nin chỉ là tấm bình phong nấp sau
đó các bè phái chia nhau chiếu trên chiếu dưới, không những ở Trung ương
mà còn ở những đơn vị địa phương nhỏ bé nhất như các phường xã... Chế
độ cộng sản Việt Nam không phải là chế độ độc tài độc đảng - với nghĩa
có một nhà độc tài sử dụng đảng của mình như một công cụ - mà là chế độ
Nhị thập đảng X 2 vô lãnh tụ trong chế độ này mỗi tỉnh là một đảng, mỗi
đảng lại phân làm 2 phái chia nhau quyền hành theo tập tục của các làng
xã Việt Nam khi xưa. Có sự ngược đời là muốn giải quyết cần phải tạo cho
ĐCSVN một lãnh tụ độc tài để có thể hạ bệ được.