Lưu Tâm Vũ (Hội nhà văn Trung Quốc)
Trần Đình Sử trích dịch
Trần Đình Sử trích dịch
Lời người dịch: Đây là quan điểm của nhà văn Lưu Tâm Vũ, sinh năm 1942, tác giả truyện ngắn Chủ nhiệm lớp, mở đầu khuynh hướng văn học “vết thương” của văn học đương đại Trung Quốc. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo về trạng thái tư tưởng hiện nay của nhà văn Trung Quốc.
Sáng tác lẽ ra bắt đầu từ yêu thích cá nhân. Đem tác phẩm viết xong đi công bố lẽ ra cũng là do nhu cầu cá nhân.
Nhưng ở Trung Quốc thế kỉ XX, sự viết lách của cá nhân bị chính trị
can thiệp dữ dội. Có nhà văn tự giác đồng nhất mình với chính trị và thể
hiện mình trong sáng tác. Có nhà văn bị động viết theo khuôn khổ chính
trị, nhưng trong sáng tác có ý thức thể hiện khuynh hướng thẩm mĩ và cá
tính của mình. Có nhà văn không đồng nhất mình với chính trị, nhưng lợi
dụng chính trị để viết một cách đầu cơ trục lợi. Có người lại ở bên lề
tránh xa chính trị, lách qua khe hở của chính trị mà nở ra những bông
hoa thơm ngát của mình.
Sự can thiệp của chính trị đối với văn học trong thời kì Cách mạng
văn học có thể nói đạt đến cực điểm, văn học đại lục, xét về nhà văn hầu
như toàn quân đã bị tiêu diệt, mặc dù vào các năm 1973 – 1976 có xuất
hiện “tác phẩm mới”, song đều là tác phẩm ngoài văn học.
Thế là bắt đầu từ cuối năm 1977 đến năm 1979 xuất hiện cao trào “văn
học vết thương”, coi như văn học đại lục thế kỉ XX bắt đầu chập chững.
Như đứa bé mới lọt lòng, ra ngoài cơ thể mẹ bèn khóc oe oe. Sau đó
mới tập đi (tương tự như bắt đầu tập viết các tác phẩm văn học đích
thực), tập nói (tương tự như bắt đầu tiếp nối cái truyền thống văn học
lâu đời bị cắt ngang)…
Văn học sau cách mạng văn hóa phát triển rất nhanh. Đến những năm 80,
cũng do nhà nước đã mở cửa, không khí tươi mát ùa vào, các nhà văn trẻ
Trung Quốc như kẻ đói khát lâu ngày hấp thu các trường phái hiện đại,
hậu hiện đại phương Tây, có vẻ như dinh dưỡng quá thừa, sinh trưởng có
phần dị dạng. Tuy nhiên vẫn tốt, nói chung là lành mạnh, tỏ ra là có
tính độc lập của kẻ trưởng thành, bước những bước dài trên con đường mà
mình ưa thích. Sau những năm 90 do kinh tế phát triển mạnh mẽ, văn học
cũng theo sự đa nguyên của kinh tế mà đa nguyên, đó trước hết là một
việc tốt, song vẫn chưa có văn học thật sự chín muồi, nó giống như đứa
bé ương bướng chìm lấp sau chỗ khuất của ngọn sóng kinh tế thị trường.
Bước sang thế kỉ XXI nhà vănTrung Quốc chọn lập trường cá nhân trong thời đại, có những khả năng to lớn chưa từng có.
Nên cổ vũ sự phân luồng văn học trên cơ sở do phân vai mà thành từ
việc lựa chọn lí tưởng chính trị, thị hiếu thẩm mĩ, tính cách. khí chất
và thói quen viết lách của từng cá nhân.
Có nhà văn có thể viết cái mà phía quan phương đề xướng như “giai
điệu chính”, có nhà văn sáng tác theo lối “đa dạng hóa” mà quan phương
quy định rồi được thưởng, có người say mê đi tìm ảnh hưởng tự bên ngoài
biên giới, có người hoàn toàn thoát li cơ cấu và khuôn khổ của quan
phương mà sáng tác, giành được thành công trên thương trường và được
phần thưởng và sùng bái của son phấn. Có người chọn bên lề và sáng tác
bên lề. Có người chuyên viết vi phạm vùng cấm, có người đóng hai vai trở
lên.
Bản chất của văn học là sự phát huy cá tính. Giá trị của văn học là
phơi bày tính người, cá tính của con người là vô cùng phong phú, mà tính
người là cái rất khó xác định. Do đó chân trời văn học là không có giới
hạn.
Chính trị không được can thiệp văn học. Văn học cũng không cần can
thiệp chính trị. Nhà chính trị có thẻ kiêm nhà văn, nhà yêu chuộng nghệ
thuật. Nhưng nhà chính trị chỉ nên can thiệp bản thân chính trị của anh
ta. Nhất là cái chính trị đối lập với anh ta. Nhà văn có thể kiêm nhà
chính trị, có thể lấy văn nghệ làm vũ khí để hoạt động chính trị, nhưng
anh ta nên hiểu đó chỉ là ý thich và lựa chọn của cá nhân anh ta, không
liên can gì đến các nhà văn khác. Nếu khi anh ta thấy các nhà văn khác
không sẵn sàng đi làm liệt sĩ, chưa sẵn sàng làm tổng thống, bèn đi công
kích họ, lúc đó anh ta quả thật là điên rồ.
Tóm lại phúc tổ của văn học Trung Quốc thế kỉ XXI phải coi là nhà văn và nhà chính trị ai đi đường nấy.
Vậy thì trong khuôn khổ đa nguyên hóa của văn học đại lục, là một nhà văn, tôi sẽ chọn một vị trí như thế nào?
Cái tôi chọn là chỗ đứng viết ngoại biên.
Tôi tôn trọng lựa chọn của các nhà văn khác, song tôi cũng mong các
nhà văn có thể hiểu, hay ít nhất là có thái độ khoan dung đối với lựa
chọn của tôi. Tôi cảm thấy có người đồng điệu với tôi, họ chọn cách biểu
đạt khác tôi, hoặc không hoàn toàn giống tôi, song đối với tôi, họ đều
là người viết ngoại biên. Viết ngoại biên không nên chỉ là lựa chọn cá
nhân, nhưng lựa chọn này không phải là bè đảng, cho nên không có chuyện
sát phát kẻ khác.
Về viết ngoại biên, tôi xác định và miêu tả như sau.
1. Viết ngoại biên là một chỗ đứng, một trạng thái viết tương đối với
chỗ đứng trung tâm, trạng thái trung tâm. Có nhà văn ở trung tâm tiến
hành viết trung tâm, tạo thành những tác phẩm trung tâm của một thời kì.
Xã hội đã đa nguyên thì xã hội nên có một vùng ngoại biên rộng rãi,
thoáng đãng, cách xa tring tâm, gần với biên khu. Ở vùng biên có người
chọn lối sống ngoại biên, viết ngoại biên.
2. Viết ngoại biên không phải là viết đối kháng trung tâm, sáng tác
li tâm. Trung tâm nên chấp nhận ngoại biên, ngoại biên không đả kích
trung tâm, một xã hội hài hòa nên phải đa nguyên cộng sinh như thế. Đồng
thời cũng là cái sinh thái tự nhiên không cố ý xung đột nhau. Một biểu
hiện của xã hội sáng suốt là biết tôn trọng ngoại biên.
3. Đặc điểm thứ nhất của viết ngoại biên là nhà văn rút khỏi vùng
trung tâm của xã hội, không ở chốn náo nhiệt, ở yên vào một góc. Chuyên
viết không theo sứ mệnh.
4. Đặc điểm thứ hai của viết ngoại biên là người viết không quan tâm
chính trị. Vẫn có tình cảm, khuynh hướng chính trị, nhưng không làm
chính trị, không nói thay lời nhà chính trị cũng không làm kẻ bất đồng
chính kiến. Cái mà anh ta theo đuổi là quan tâm nhân loại và tìm tòi
tính người, vượt lên trên chính trị.
5. Đặc điểm thứ ba của viết ngoại biên là người viết quan tâm xã hội,
yêu thương nhóm người yếu thế, quan tâm tiến bộ xã hội, nhưng không lên
mặt đấng cứu thế, không bắt mình đi viết cái mình không quen và không
thích, như lối viết “sử thi” hay “phản ánh một thời đại”. Anh ta chỉ
nghe theo thể nghiệm của mình và viết cái mình thích thú.
6. Đặc điểm thứ tư của viết ngoại biên là về kinh tế, không có màu
sắc đặc quyền, để mặc cho thị trường lựa chọn và trở thành cơ sở vật
chất để duy trì tính độc lập của nhân cách. Nếu thất bại trên thị trường
thì cam chịu nghèo nàn, vui với đạo của chính mình như mình vốn thế.
7. Mẫu mực lịch sử của viết ngoại biên là, xa thì như Hồng Lâu mộng
của Tào Tuyết Cần, gần thì như sang tác của Thẩm Tòng Văn, Trương Ái
Linh. Tất nhiên không phải mọi người viết ngoại biên đều có thể tạo ra
tác phẩm sáng giá như thế. Bất luận tác phẩm trung tâm hay ngoại biên
lịch sử đều đòi hỏi khắt khe như nhau, muốn được lưu truyền thì đều phải
là kiệt tác của nhân loại, đối với thời kì mà nó sản sinh thì mẫu số
phải rất lớn mà tử số thì rất bé.
8. Viết trung tâm hay viết ngoại biên khái niệm đều rất mơ hồ, không
thể xét theo định lượng. Cái tâm của trung tâm to bằng nào, rất khó xác
định. Từ ngoại biên của trung tâm cho đến chỗ tận cùng của ngoại biên
rộng bằng nào, cũng không thể xác định. Giữa hai cái ấy còn có cả một
khu vực trung gian rộng lớn.
9. Tình cảm nhân văn của con người thế kỉ XXI tôi cho rằng đó là
trung tâm cần phải dung nạp, đối xử tử tế đối với ngoại biên, không
được hễ động một cái là gây sự với người ngoại biên, văn ngoại biên. Mà
ngoại biên cũng không cần li tâm. Người trung tâm dùng diễn ngôn trung
tâm viết văn chương trung tâm, người ngoại biên dùng diễn ngôn ngoại
biên viết văn tự ngoại biên, không tranh nhau, không xung đột, không đi
lại, nhưng vẫn có thể tiếp đãi nhau lịch sự, tiếp xúc lịch lãm.
10. Người chiếm vị thế trung tâm được hưởng nhiều quyền lợi, khi muốn
gây áp lực đối với thế lực ngoài ngoại biên thì dùng lời ngoại biên nói
để lấy lòng; cũng vậy người ngoại biên nói lời ngoại biên mà mưu cầu
lợi ích trung tâm thì đều phải bị khinh bỉ.
11. Tình cảm nhân văn của con người thế kỉ XXI, theo tôi, ở Trung
Quốc, vô luận là trung tâm hay ngoại biên, phải có một điểm chung, đó là
ra sức mở rộng bán kính đời sống vật chất và tinh thần, nhất là tinh
thần của dân tộc. Đối với người đứng ở vị trí trung tâm, mở của khai
phóng và khoan dung là trách nhiệm hàng đầu. Đối với người ở ngoại biên
mà nói, cam chịu tịch mịch để sáng tác là mục tiêu hàng đầu của tồn tại.