Hoàng Lô Giang
Từ đầu năm đến nay đã có rất nhiều người trong đó bao gồm cả những
đảng viên cộng sản tỏ chính kiến công khai trên các báo chí chính thống
trong nước như Vietnam.net, VnExpress, đề xuất bỏ Điều 4 ra khỏi Hiến
Pháp 1992. Chúng ta hãy cùng nhau điểm lại tình hình.
Ngày 14/1/2013, ông Trần Đình Nhã, Uỷ ban quốc phòng-an ninh của Quốc
hội nói với báo chí: ”Chưa bao giờ từ tham nhũng xuất hiện với tần số
nhiều như ở thời điểm này. Tham nhũng đang thách thức sự kiên nhẫn và
sức chịu đựng của nhân dân“.
Ngày 27/2/2012, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam, trong bài: ”Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng“ đã viết: ”Bây
giờ trong Đảng cũng có phân hoá giầu-nghèo. Dư luận xã hội bức xúc nhất
là tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm“. Ông Trọng còn nói: ”Về
nguyên nhân thì nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Về tính chất của những
tệ nạn đó là nghiêm trọng. Về phạm vi là tương đối phổ biến, trong đó có
cả một số cán bộ cao cấp. Về xu hướng là diễn biến phức tạp. Về hậu quả
là làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng“.
Ông Trương Tấn Sang, đương kim Chủ tịch nước nói về nạn tham nhũng
như sau: ”Trước đây chỉ có 1 con sâu làm rầu nồi canh. Nay thì nhiều sâu
lắm. Một con sâu đã nguy hiểm rồi, nay cả 1 bầy sâu thì chết cái đất
nước này“.
Từ khi chủ nghĩa Mác được ĐCSVN điều chỉnh, cho phép đảng viên cộng
sản kinh doanh, trở thành nhà tư bản tư nhân, thì những thủ đoạn làm
giầu bất chính của những người có chức vụ, có quyền, nhằm tích tụ tư bản
ban đầu như ở giai đoạn tiền tư bản chủ nghĩa hoang sơ man rợ, không
phân biệt trắng trợn hay tinh vi xảo quyệt, ngày càng lan rộng trên mọi
lĩnh vực, ở mọi cấp độ.
Đất nước đang cần nhiều người có đức có tài ra gánh vác việc nước
nhưng môi trường tham nhũng, bè phái, lợi ích nhóm không phải là môi
trường có khả năng tập họp những người vừa có đức, vừa có tài.
Ông Trần Viết Hoàn, cử tri Hànội đã nói với đại biểu Quốc hội: ”Dân
ta coi tham nhũng là giặc nội xâm, là quốc nạn, là giặc nằm trong lòng“.
Ngày 26/2/2013, ông Nguyễn Đăng Tấn nói với báo chí: ”Hiên nay chống
tham nhũng là vấn đề cốt tử nhất mà nhân dân quan tâm, nhưng cho đến
nay, mỗi lần tổng kết chống tham nhũng, chúng ta vẫn nói chỉ mới đạt
được kết quả bước đầu“.
Năm 2011, trong lễ nhậm chức Thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng tuyên
bố: ”Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống
được tham nhũng thì tôi xin từ chức ngay“. Tuy nhiên cho đến nay tình
hình tham nhũng càng nghiêm trọng và phổ biến trong xã hội.
Tại sao nạn tham nhũng có mặt ở tất cả các quốc gia nhưng các
quốc gia khác thì diệt được nạn tham nhũng nhưng ở Việt Nam thì không
làm được như vậy?
Ngày 01/12/2012, TBT Nguyễn Phú Trọng nói với cử tri Hà Nội: ”Đảng
đã tiến hành tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết trung ương 4 nhưng “nhiều vị không chịu thừa nhận khuyết điểm sai lầm“.
Ông Trọng còn nói: ”Chỉ ra bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên đã suy
thoái đạo đức là bao nhiêu thì trừu tượng quá và cũng khó tách bạch ai
nằm trong bộ phận đó“. Ông Trọng nói thêm: ”Rất khó để ai đó nhận ra khuyết điểm của mình“. Như
thế có nghĩa là ĐCSVN đã thất bại khi chỉ dựa vào giám sát nội bộ, tự
cho phép mình đứng ngoài sự kiểm tra giám sát thực sự của nhân dân và
pháp luật.
Ngày 12/6/2010, khi là Phó Thủ tướng, ông Nguyễn Sinh Hùng nói trước
Quốc hội: ”Hôm nay thấy sai chỗ này một chút thì xử lý cách chức đi, kỷ
luật đi. Ngày mai thấy sai chỗ kia một chút thì xử lý cách chức đi, kỷ
luật đi thì lấy ai mà làm viêc, các đồng chí?”.
Ông Nguyễn Tấn Dũng thì nói: ”Đồng chí Phạm Văn Đồng là người làm
Thủ tướng lâu nhất, có lần nói chưa xử lý kỷ luật một đồng chí nào cả,
Chắc là tôi phải học theo đồng chí Phạm Văn Đồng“.
Nhưng Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Thắng, Học viện chính trị-hành chính quốc
gia TP Hồ Chí Minh ngày 31/1/2013 thì chỉ ra đích danh với báo chí rằng:
”Chỉ những người có chức, có quyền, những cán bộ công chức nắm trong
tay quyền, tiền, của cải thì mới có khả năng tham nhũng, mà tuyệt đại đa số là đảng viên“.
Ngày 14/1/2013, Bà Lê Thị Nga, Uỷ ban tư pháp của Quốc hội nói với báo chí: ”Tham nhũng về bản chất là sự lạm dụng quyền lực, là sự tha hoá quyền lực bởi những người có chức, có quyền trong bộ máy Nhà nước nhằm lợi ích riêng. Muốn chống tham nhũng thì phải kiểm soát quyền lực.
Quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân. Quyền lực của Nhà nước là quyền
lực phái sinh, do nhân dân trao cho. Quyền lực nếu không được kiểm soát
sẽ trở thành tha hoá. Để chống tham nhũng, quốc gia nào cũng buộc phải
xây dựng cho được thể chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả“.
Ngày 11/1/2013, ông Vũ Oanh, nguyên uỷ viên Bộ chính trị ĐCSVN đã nói với báo chí: ”Khi đặc quyền, đặc lợi quá lớn sẽ dẫn đến hiện tượng mua quan, bán chức, cán bộ suy thoái đạo đức và sẽ dẫn đến tham nhũng. Cơ chế của ta đã tạo ra đặc quyền đặc lợi lớn. Có xử lý được vấn đề này mới có thể chống tham nhũng được“.
Giáo sư Nguyễn Văn Huyên (nguyên Viện trưởng Viện Chính trị học)
cảnh báo: ”Đảng cần xem lại cả về tâm và tầm để liệu xem Đảng thật sự có
đạo đức, có văn minh, là trí tuệ, là thiên tài chưa?”.
Ngày 23/1/2013, ông Bùi Đức Lại, chuyên gia cao cấp của Ban tổ chức
trung ương đã nói với báo chí: ”Chỉ từ Hiến pháp 1980 mới có Điều 4 nói
về vai trò lãnh đạo của Đảng. Trước đó Hiến pháp nước ta chưa có điều
khoản nào tương tự nhưng không vì thế Đảng cộng sản Việt Nam mất quyền
lãnh đạo. Đảng cộng sản Liên Xô dù vẫn giữ được điều khoản tương tự
trong Hiến pháp của họ nhưng vẫn không tránh được thất bại. Các Đảng
cộng sản Đông Âu cũng vậy. Vì thế ở đây là vấn đề Chính Đảng lãnh đạo có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương sứ mệnh được nhân dân uỷ thác hay không “. Ông Bùi Đức Lại còn nói: ”Trong Nhà nước pháp quyền của dân và vì dân thì dân là chủ thể quyền lực. Vai trò Đảng cộng sản lãnh đạo Nhà nước về bản chất là do nhân dân uỷ thác cho Đảng.
Không thể đặt vấn đề Đảng lãnh đạo đứng trên hay đứng ngoài Hiến pháp
và Pháp luật. Đảng không những phải tôn trọng mà còn phải chịu sự điều
chỉnh của Hiến pháp và Pháp luật bình đẳng như mọi chủ thể chính trị
khác và chịu sự giám sát của nhân dân.
Ngày 6/2/2013, ông Vũ Mão, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã
nói với báo chí: ”Việc Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình cần được Luật hoá“.
Ông nói thêm:
”Tình hình hiện nay rất nguy hiểm. Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
Đảng viên trong đó có cả một số cán bộ cao cấp là vô đạo đức, tham
nhũng, vơ vét của dân. Đó là điều không thể chấp nhận“.
Các ông Phạm Xuân Hằng nguyên Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Hoàng Thái và Lê Truyền nguyên uỷ viên trung ương MTTQVN và ông
Nguyễn Khánh nguyên Phó thủ tướng đều đã thông qua báo Vietnamnet ngày
19/2/2013 tỏ ý kiến đồng tình với sự cần thiết có Luật về Đảng và sự
lãnh đạo của Đảng.
Nhưng giả sử có Luật về Đảng và sự lãnh đạo của Đảng thì giám sát bằng cách nào?
Ông Vũ Oanh đã chỉ ra rằng “Cơ chế của ta (do ĐCSVN tạo nên) đã tạo
ra đặc quyền đặc lợi lớn. Đó là 1 trong những nguyên nhân quan trọng làm
cho cán bộ, Đảng viên suy thoái đạo đức, dẫn đến tham nhũng“.
Thực trạng hiện nay là trong hệ thống cơ chế đó, điều 4 của Hiến pháp 1980 và của Hiến pháp 1992 chính là cái gốc tạo ra đặc quyền đặc lợi, bởi 2 lẽ:
Thể chế chính trị một Đảng cầm quyền vốn thường đẻ ra chuyên quyền
độc đoán, dùng quyền lực thay cho chân lý, thay Pháp luật trong chỉ đạo
và điều hành. Theo Điều 4 Hiến pháp thì chỉ ai là đảng viên cộng sản mới
được cất nhắc lên những vị trí thật sự có chức có quyền, nắm giữ những
quyền lực có khả năng chi phối tiền bạc, tài sản công để tham nhũng mà rất khó bị phát hiện và ngăn ngừa.
Những kẻ muốn có những đặc quyền đặc lợi đó tất yếu sẽ tìm mọi cách, kể
cả những thủ đoạn gian manh, hối lộ, mua chuộc để được vào Đảng và đến
lượt họ, bằng chính kinh nghiệm của mình, khi đã vào Đảng, họ không bao
giờ thực sự trở thành công bộc của dân. Giám sát họ không dễ dàng.
Ngày 31/1/2013, Tiến sĩ Tống Đức Thảo (Viện chính trị học) nói với
báo chí: ”Một trong những quyền quan trọng thể hiện quyền lực thuộc về
nhân dân là quyền được quyết định chọn lựa các đại diện thể hiện ý chí
của mình, đi đôi với nó là quyền phế truất khi người được uỷ quyền không
thi hành đúng ý nguyện của nhân dân“. Nhưng cơ chế nào bảo đảm cho sự thực hiện cái quyền đó?
Ông Đỗ Mười đã có sáng kiến thiết kế ra “Quy chế dân chủ ở cơ sở“ để
cho dân được bày tỏ ý kiến của mình trong các buổi họp Tổ dân phố với
Tổ trưởng phải là đảng viên, hoặc tham gia biểu quyết trực tiếp bằng
cách giơ tay hoặc không giơ tay tán thành. Với những vấn đề “thuộc loại
nhạy cảm“ như chống tham nhũng, chắc rằng không ai dại dột sử dụng Quy
chế dân chủ cơ sở của ông Đỗ Mười để mang vạ vào thân. Với Quốc hội Việt
Nam, 90% Nghị sĩ là đảng viên cộng sản, cũng không người dân nào muốn
gửi tiếng nói của mình thông qua Quốc hội về những vấn đề gọi là “nhạy
cảm“ như chống tham nhũng.
Ngay ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Nguyễn Sinh Hùng không muốn kỷ luật
ai cũng có cái lý của hai ông. Các Bộ trưởng giúp việc và các quan chức
đầu Tỉnh, đầu Thành phố trực thuộc trung ương, dưới quyền hai ông đều ít
nhất là uỷ viên trung ương Đảng. Làm phật lòng họ, hai ông có thể mất
phiếu và do đó mất chức mất quyền. Như vậy, nếu có Luật về Đảng thì cái cơ chế hiện nay không tạo được thuận lợi cho sự giám sát sự thực thi Luật đó.
Những ý kiến trên đây là của những đảng viên cộng sản đã được đăng công khai trên các báo chính thống.
Làm thế nào để có thể giám sát có hiệu quả?
Ngày 19/2/2013 ông Trần Đức Thuận, nguyên phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội nói với báo chí: “Một Đảng cầm quyền nên chấp nhận cạnh tranh.
Chấp nhận cạnh tranh chính là chấp nhận sự tự rèn luyện để ngày càng
trưởng thành, trong sạch và vững mạnh. Nhân dân sẽ giúp Đảng loại bỏ
những phần tử suy thoái tư tưởng, biến chất, tham nhũng“. Chấp nhận cạnh tranh tất yếu phải chấp nhận đa nguyên, đa đảng, phải bỏ điều 4 ra khỏi Hiến pháp 1992 .
Như vậy, việc thành lập Đảng mới Dân chủ xã hội ở thời điểm này để giúp
Đảng cộng sản rèn luyện ngày càng trong sạch, vững mạnh là việc làm hợp lòng dân, trong đó có rất nhiều Đảng viên cộng sản chân chính, trở thành một yếu tố cực kỳ quan trọng trong 3 yếu tố quyết định sự thành công là “thiên thời, địa lợi và nhân hoà“.
Hoàng Lô Giang