Nguyễn Hữu Đang
Việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 sắp kết
thúc trong tháng tới. Chúng tôi giới thiệu lại bài viết này, nhân kỉ
niệm 100 năm sinh của Nguyễn Hữu Đang (15-8-1913 – 08-2-2007), như ý
kiến cách đây gần sáu mươi năm của một nhân dân đã có mặt ngay trong
những ngày đầu thiết lập chính quyền của mình, ở vị trí tiên phong. Bài
viết này đăng trên trang nhất ở vị trí xã luận trên tờ Nhân văn số 5, ra ngày 20-11-1956, số cuối cùng của tờ báo [i].
_______________
Hiến pháp 1946 của ta, sau khi được Quốc hội thông qua liền bị hoãn
thi hành vì tình hình trong nước nghiêm trọng. Nhưng từ sau Hiệp định
Giơ-ne-vơ, tình hình miền Bắc, mặc dầu còn có nhiều khó khăn kinh tế và
cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất gay go phức tạp, cũng phải coi là đã
trở lại bình thường rồi. Vậy chúng ta có thể đề ra hoặc việc thi hành
Hiến pháp 1946 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp mới.
Có những người nói: „Ta hãy chờ thống nhất xong đất nước, khi đó sẽ
có Quốc hội mới, Hiến pháp mới. Miền Nam đã đặt Hiến pháp riêng [ii],
nếu miền Bắc cũng lại ban bố Hiến pháp riêng nữa thì công cuộc thống
nhất đất nước càng khó khăn.“
Tôi không biết những người nói thế thành thực tới mức nào. Tôi chỉ
biết Đảng, Chính phủ và toàn dân miền Bắc đã đồng ý với nhau nhận định
là cuộc đấu tranh thống nhất sẽ lâu dài. Nếu trong thời gian lâu dài đó
mà miền Bắc không ban bố một Hiến pháp tạm thời, nghĩa là không có một
nền tảng cho cái lâu đài pháp trị xây dựng lên trên, thì mọi việc còn
xộc xệch. Như thế thì củng cố làm sao được miền Bắc để tranh thủ miền
Nam?
Nhất định phải ban bố Hiến pháp.
Toàn bộ một Hiến pháp thích hợp với hoàn cảnh miền Bắc ngày nay phải
thế nào, tôi không bàn trong bài này. Ở đây tôi chỉ muốn cả quyết một
điều là dù Hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung thế nào đi nữa, cái phần
bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn không thể thay đổi so với
Hiến pháp 1946. Vì đó là một điều kiện „không có không được“ của một
chính thể dân chủ.
Hiến pháp 1946 ghi:
ĐIỀU THỨ 10: Công dân Việt Nam có quyền:
- Tự do ngôn luận
- Tự do xuất bản
- Tự do tổ chức và hội họp
- Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra ngoài nước
ĐIỀU THỨ 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và
giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam
không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.
Hôm nay tôi nhắc lại vài điều của Hiến pháp 1946 hẳn có bạn nghĩ:
Hiến pháp 1946 là cả một sự nhân nhượng chiến thuật với bọn Quốc dân
Đảng. Việt Nam được quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ và những
tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận lúc ấy chưa ngả theo cách mạng. Mức độ
của nó so với ngay hoàn cảnh nước ta năm 1946 cũng chưa đủ, huống nữa là
so với hoàn cảnh nước ta ngày nay, chính quyền nhân dân đã tiến những
bước khổng lồ. Ngày nay lực lượng công, nông đã lớn mạnh, lẽ tất nhiên
phải chuyên chính hơn chứ không thể lui lại trình độ gần với dân chủ tư
sản như năm 1946.
Thật không còn tư tưởng nào phản dân chủ hơn tư tưởng đó. Và nguy
hiểm nhất là nó lại khoác áo “lập trường cách mạng”, lớn tiếng “vì công
nông”.
Nghĩ như thế là không nắm vững cái kim chỉ nam trong mọi vấn đề chính
sách và pháp trị là: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.
Nắm vững phương châm đó, ta thấy rằng những tự do dân chủ là ban bố
cho các tầng lớp nhân dân (gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư
sản dân tộc) thì càng ngày càng phải được tăng cường, mở rộng theo sát
bước tiến của cách mạng.
Hãy lấy trình độ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa làm mức sẽ tiến tới
của chúng ta. Có phải trình độ cách mạng ở Trung Hoa năm 1954 cao hơn
trình độ cách mạng ở Việt Nam 1946 thì quyền tự do dân chủ trong Hiến
pháp Trung Hoa 1954 thu hẹp hơn trong Hiến pháp Việt Nam 1946 không?
Không!
Hiến pháp Trung Hoa 1954 ghi:
ĐIỀU 87: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đều có
quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, tổ chức tuần hành thị uy. Nhà
nước cung cấp những điều kiện vật chất thuận lợi cần thiết và đảm bảo
cho công dân hưởng thụ những quyền kể trên.
ĐIỀU 89: Thân thể người công dân Trung Hoa là bất khả xâm
phạm. Bất luận công dân nào, nếu không có quyết định của Pháp viện Nhân
dân và phê chuẩn của Viện Kiểm sát Nhân dân, thì không thể bị ai bắt
giam được.
ĐIỀU 90: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được pháp
luận bảo đảm nhà cửa không bị xâm phạm, thư từ được giữ bí mật. Công dân
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quyền được tự do cư trú và đi lại.
Đọc đoạn trên này ta thấy Hiến pháp Trung Hoa 1954 buộc Nhà nước phải cung cấp những điều kiện vật chất cần thiết
để đảm bảo cho công dân hưởng thụ đầy đủ những quyền tự do dân chủ. Như
thế là vừa rộng rãi hơn vừa thiết thực hơn Hiến pháp Việt Nam 1946.
Điều đó chứng tỏ chế độ càng tiến bộ, dân chủ càng mở rộng.
Liên hệ những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam
1946 và Hiến pháp Trung Hoa 1954 với thực tế miền Bắc bây giờ chúng ta
thấy gì?
Chúng ta thấy các quyền tự do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và chúng
ta nhiệt liệt hoan nghênh nghị quyết của Hội nghị lần thứ 10 của Trung
ương Đảng Lao động đã nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ
[iii].
Nhưng tại sao việc đó mới đề ra chứ chưa thực hiện được phần nào mà
đã lại có ngay một luồng dư luận chống đối, hình như muốn chuyên chính
hơn nữa? Sự thay đổi đột ngột ấy làm cho quần chúng hoang mang, lo ngại.
Chuyên chính với địch thì bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước tới nay
có phút nào chúng ta buông lỏng đâu mà phải hô hào? Còn chuyên chính với
nhân dân thì cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân
sâu xa của những biến cố ở Ba-lan và Hung-ga-ri là vì thiếu dân chủ,
tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?
Nhưng dù biện luận thế nào đi nữa thì cũng không thể vứt bỏ được cái
nguyên tắc mà ông Lưu Thiếu Kỳ đã nêu ra trong bản Báo cáo về Hiến pháp
đọc tại phiên họp đầu khoá thứ nhất của Quốc hội Trung Hoa ngày
15-9-1954:
“Chế độ chính trị của chúng ta tập trung đến cao độ nhưng sự tập trung cao độ ấy căn cứ trên một nền dân chủ cao độ”.
Nói chi dân chủ cao độ, ngay dân chủ trung bình ta cũng còn phải bồi
bổ thêm nhiều, thế mà lại muốn chuyên chính hơn nữa thì không có lợi.
Nguồn: talawas, 2007
__________________
[i] Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh báo chí 282/SL, để ngay hôm sau, ngày 15-12-1956, Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội ra quyết định đình bản và cấm lưu hành báo Nhân văn. Một bài viết trên báo Quân đội Nhân dân, kỉ niệm 50 năm Sắc lệnh này nêu rõ bối cảnh: „Miền
Bắc tiến hành Cải cách Ruộng đất nhưng đã vấp phải một số sai lầm. Một
số tờ báo và cá nhân đã lợi dụng sự kiện này để xuyên tạc sự thật, khoét
sâu những sự việc nhỏ thành to, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan đối với
chế độ, với Đảng và nhân dân, gây chia rẽ nội bộ… Trước tình hình đó,…
ngày 14-12-1956, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký
sắc lệnh số 282/SL về báo chí…“ Như vậy ông Hồ, người cũng có sáng
tác văn thơ, đóng một vai trò rất đáng chú ý trong vụ Nhân văn-Giai
phẩm. (Các chú thích là của pro&contra.)
[ii] Đó là bản Hiến pháp ban hành ngày 26-10-1956
[iii] Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng, tháng 9-1956, về mở rộng quyền tự do dân chủ và tăng cường chế độ pháp trị dân chủ thừa nhận: „Trong
tình hình gay go và phức tạp của cuộc kháng chiến và của thời kỳ mới
lập lại hoà bình thì việc phải hạn chế dân chủ trong một phạm vi nào đó
là cần thiết và đúng. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, việc xây dựng
chính quyền dân chủ nhân dân của ta cũng có nhiều thiếu sót: việc thực
hiện các quyền dân chủ của nhân dân chưa được đầy đủ; việc bảo đảm chế
độ pháp trị dân chủ chưa được chú ý, như trong cải cách ruộng đất, chỉnh
đốn tổ chức, quản lý hộ khẩu, v.v… Đảng lãnh đạo chính quyền có phần
thì bao biện, có phần thì buông lỏng.“