Dân Luận
Bùi Diễm (1923- ) là cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở Mỹ.
Ông quê ở Hà Nam, Việt Nam; cha ông là nhà nho Ưu Thiên Bùi Kỷ, dòng dõi
phó bảng Bùi Văn Quế và Bùi Ân Niên. Bùi Diễm gọi Trần Trọng Kim là
cậu.
Ông hoạt động chính trị trường từ thời học trường Bưởi, vận động cho
chính phủ Trần Trọng Kim và đảng Đại Việt nhưng rồi rời chính trường cho
tới khi nền Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam chấm dứt. Trong thời gian đó ông
làm chủ nhiệm tờ Vietnam Post xuất bản ở Sài Gòn bằng Anh ngữ
(1954-1963). Đây là tờ báo tiếng Anh đầu tiên ở Việt Nam. Ông cũng là
người sản xuất cuốn phim Chúng tôi muốn sống, một tác phẩm lớn trong
ngành Điện ảnh Việt Nam.
Khi Thủ tướng Phan Huy Quát ra chấp chính, ông giữ chức Bộ trưởng Phủ
Thủ tướng. Ông cũng là đảng viên Đảng Đại Việt.
Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam ông được bổ làm đại sứ Việt Nam Cộng hòa ở
Washington, D.C., thay thế đại sứ Vũ Văn Thái. Chức vụ này ông đảm
nhiệm từ năm 1967 đến năm 1972 thì chuyển làm đại sứ lưu động cho đến
năm 1975.
Sau năm 1975, ông tỵ nạn tại Hoa Kỳ. (Nguồn: Wiki)
Trong những ngày này, Việt Nam thật chẳng khác nào một cô gái
quê mùa bị những người chủ gian ác, bất cần liên tục hà hiếp. Pháp, Nhật
và Tàu đều ngược đãi cô ta. Rồi trong lúc đang đau khổ tuyệt vọng, bỗng
một hoàng tử hào hoa và đẹp trai hiện ra. Đối với Việt Nam thì Hoa Kỳ
quả là một tiếng sét ái tình.
Chẳng may, tình yêu này lại không bao giờ được đền đáp. Mặc dù thiếu tá
Patti rất ngưỡng mộ các lãnh tụ Việt Minh, và mặc dầu những lãnh tụ này
cố khoa trương sự chú tâm của Hoa Kỳ, rõ ràng sự móc nối với Hoa Kỳ vẫn
hoàn toàn chẳng đi đến đâu. Vì lý do này hay lý do khác, Hoa Thịnh Đốn
đã khoanh tay nhất định không làm bất cứ điều gì có thể thay đổi các
biến cố đang ngày càng biến hóa và phức tạp tại Việt Nam. Ông Hồ Chí
Minh và Võ Nguyên Giáp chỉ phải bận tâm đương đầu với Tàu và Pháp, trong
khi đó các đảng phái còn lại phải lo âu về những toan tính của cả Pháp,
lẫn Tàu và Việt Minh. (Trích chương 6 - Anh, Tàu và Pháp)
TRONG GỌNG KỀM LỊCH SỬ
Lời Người Dịch
Đã có nhiều quyển sách viết về Việt Nam trong những năm vừa qua,
trong số này, không ít đã diễn tả tường tận những cảnh tượng đồi bại của
chế độ cũ, những cuộc tranh chấp ngấm ngầm trong chánh phủ hay trên bàn
đàm phán. Tất cả đều viết về những việc thật gần, thật cận, hoặc từ năm
1960–1975, hoặc từ những năm sau. Mỗi quyển đều nói lên cương vị của
người viết hay về một giai đoạn đặc thù của lịch sử. Nhưng quyển Trong
Gọng Kềm Lịch Sử, nguyên tác In The Jaws Of History của ông Bùi Diễm và
David Chanoff có lẽ đã ám ảnh người đọc sâu xa hơn tất cả.
Chỉ nói riêng về chiều dài, tác giả đã đi ngược suốt từ thời Pháp
Thuộc qua thời kỳ Bảo Đại, ông Diệm cho đến những ngày chót khi Miền Nam
Việt Nam sụp đổ và đề cập đến những nhân vật chìm, nổi trong chính
trường từ lúc phôi thai như những học sinh ở trường Thăng Long cùng Ban
Giảng Huấn cho đến những sảnh đường quyền lực ở Hoa Thịnh Đốn. Trong
suốt 343 trang sách, ông Bùi Diễm, nguyên Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh
Đốn, con ruột học giả Bùi Ưu Thiên và cháu ruột sử gia Trần Trọng Kim đã
thuật lại cuộc đời của mình cũng như cuộc đời của những người cùng lứa
tuổi trong một thế khóa oái oăm của lịch sử. Từ ngày biết nhận xét cho
đến lúc đã thực sự bị cắt rời khỏi đất nước, cuộc đời tác giả được mở ra
gần như trọn vẹn trong 36 chương sách: “Gọng Kềm, Hội Kín, Khủng Bố,
Lập Trường… Đảo Chánh…” Tất cả những danh từ nói về những cảm quan cũng
như các biến cố quá khứ đều nằm gọn “trong gọng kềm lịch sử,” một bầu
không khí khắc nghiệt, mang tính chất định mệnh (Historical Determinism)
chẳng khác nào bầu không khí của Chiến Tranh và Hòa Bình, kiệt tác của
Leo Tolstoy. Quyển sách dù nặng phần chính trị nhưng mang đầy tính chất
văn chương trong lời viết. Có lẽ lối viết là do nỗ lực cố đem cảm quan
của riêng người kể (hoặc thế hệ người kể như đã minh xác trong lời mở
đầu) đến với người đọc nên mặc dù quyển sách được viết từ lối nhìn chủ
quan, chính cảm quan của người kể đã mang lại tính chất văn chương trong
lối diễn tả.
Trong cái thế xiết chặt của lịch sử thì một cá nhân dẫu có vùng vẫy
cách nào cũng không thể thoát ra khỏi bước kềm tỏa. Một cá nhân dầu ở
cương vị nào, dẫu phấn đấu thế nào cũng không thể chuyển lay cả toàn cục
diện.
Những cái buông, bắt ở một tư thế nào đó không còn thuộc phạm trù của
tầm với đã biến con người thành một con ốc trong bộ máy to lớn của lịch
sử. Có những lúc lịch sử đã thoát thai, thành một quái vật khổng lồ
đuổi bắt những người trong cuộc một cách nghiệt ngã. Lịch sử đã không
cho phép những người trong cuộc giữ phần lèo lái. Khi bánh xe lịch sử
chuyển hướng những người trong cuộc thường phải sững sỡ vì lịch sử không
còn đứng về phía họ. Trong cơn loạn đả, lịch sử đã trong một phút giây
nào đó, bằng cách này hay cách khác, trở nên một con vật khổng lồ dồn họ
về ngõ cụt. Dầu muốn, đầu không, bất thình lình những mộng ước cao xa,
tuyệt vời bỗng chuyển thành những tăm tối bắt buộc. Những cơn phong ba
của lịch sử đã dồn dần đám người nghiệt ngã vào một hố thẳm không cùng
của tuyệt vọng. Trong cơn phẫn nộ điên cuồng, lịch sử đã dẫm nát mọi
chướng ngại vật. Danh dự hoặc lương tâm. Tâm hồn hay thể xác. Tất cả đều
bị nghiền nát vì gọng kềm lịch sử. Giữa phút thăng hoa cuồng dại, lịch
sử đã chẳng cần nhớ đến luận lý. Lịch sử đã hoàn toàn thoát khỏi phạm vi
của lý trí. Những vết hằn của những con người bị nghiền nát đôi khi tản
mát dần đi qua những tiếng thở dài bi phẫn, những cơn ủ dột triền miên,
nhưng đôi khi những vết hằn đó, ở những góc độ khốc liệt nhất bỗng cô
đọng, phát ra thành những tiếng kêu bi thảm. Tiếng kêu của lịch sử.
Những vết hằn đó đã điểm tô lịch sử, không phải bằng những vương miện
của chiến thắng, không phải bằng những ân sủng không ngừng của danh dự,
mà là điểm tô bằng những giòng máu, những giọt nước mắt, những cực nhục
của những hòn đá xanh cục cằn không ai nhắc đến trong các đoạn đường
lịch sử.
Kể từ thời khi lịch sử phát sinh cho đến hiện tại, có lẽ lúc nào
người ta cũng chỉ nhìn về hào quang của những lúc chiến thắng. Người ta
thường quên số phận của những kẻ kém may mắn hơn, số phận của những vết
hằn.
Nhưng có một lúc nào đó, những vết hằn bỗng tỏa ra những hấp lực lạ
kỳ, bỗng nhiên óng ánh, thiêng liêng trong bản chất chân thật cố hữu.
Khi những tiếng ngợi ca chiến thắng đã trở thành một thứ “Tiếng Trống”
bập bùng vô nghĩa, người ta bỗng phát hiện ra rằng những viên đá xanh đã
góp phần không kém vào việc tạo dựng lịch sử. Lịch sử đã chối bỏ vinh
quang đối với những vết hằn, nhưng những vết hằn đã điểm tô cho lịch sử.
Những vết hằn, những cái nhìn từ những tư thế thảm khốc nhất, chẳng
những chỉ điểm tô mà hóa thân trong lịch sử. Chính những vết hằn là âm
hưởng rõ rệt nhất, là hình ảnh sinh động nhất của lịch sử. Những vết hằn
là… lịch sử.
Đã 13 năm qua, lịch sử vẫn tiếp tục bằng những kế hoạch năm năm, bảy
năm, bằng những trại học tập cùng khắp các miền xa xôi hẻo lánh bên nhà,
bằng những hàng người lũ lượt theo nhau tản cư, bằng những đứa bé lớn
lên hoàn toàn ngơ ngác, bằng những người lớn quật quã kinh hoàng hằng
đêm. Còn, Mất, Xảo Trá, Bất Cận Nhân Tình, Mù Quáng, Hẹp Hòi, U Mê…, tất
cả chỉ là những tên gọi khác nhau của những con người lỡ đứng về phía
hố thẳm của trốn chạy. Lịch sử đã theo sát họ để ám ảnh. Ở bất cứ tư thế
nào họ cũng nhìn thấy gọng kềm của lịch sử đang khép lại và họ phải u
buồn nhận chịu những kiếp sống của một vết hằn. Ám ảnh của lịch sử là ám
ảnh của đời sống. Chẳng những về một mặt mà là về mọi mặt. Không phải
chỉ là một lúc mà là mọi phút, mọi giây. Tâm hồn, thể xác, suy tư, nội
tâm, ngoại cảnh. Số phận của những vết hằn là số phận của những phẫn
khích truyền kiếp luôn luôn phải trốn tránh một sự thật hoàn toàn bất
công.
Đã 13 năm qua lịch sử vẫn theo sát những kẻ sống sót, vẫn toan tính
nghiền nát số phận của những kẻ bất hạnh. Bên nhà kẻ thắng cuộc nhất
thời vẫn vẽ vời, tô son điểm phấn cho “Cuộc Đại Thắng Mùa Xuân.” Bên
ngoài, từng loạt hồi ký của Neil Sheehan, của Frank Snepp, của David
Halberstam, của… Khép giữa hai gọng kềm này là những vết hằn, những
người khốn khổ trong cuộc đã ngàn đời im lặng hoặc vẫn thảm sầu trong im
lặng của bất công. Hình như chẳng có gì đáng nhớ. Hình như chẳng có gì
cao đẹp. Hình như tất cả chỉ là những thủ đoạn thần sầu của những người
lãnh đạo đã mù quáng vì uy quyền, đã mất hẳn nhân tâm. Hình như… Chẳng
có gì đáng cần biết thêm. Chẳng có gì cần để học hỏi. Tất cả đều chỉ là
lỗi lầm và tất cả đều là những việc đã qua, sẽ qua hoặc nên cho qua. Đã
có lần người ta tin rằng sự thật chắc chắn phải nằm trong những quyển
sách viết dài dằng dặc, đổ hất trách nhiệm về phía những vết hằn đang
câm lặng. Nhưng người ta đã quá hấp tấp, vì những vết hằn đã lên tiếng.
Tiếng nói thống khổ của những nạn nhân một đời đi tìm lý tưởng. Tiếng
nói của tủi cực phải ấm ức phát ra từ tiềm thức vì tai nạn xảy ra chập
chồng đã đẩy lui vào ký ức tầm mức quan trọng của những tai ương lần
trước.
Câu chuyện bắt đầu bằng một ngôi trường và người kể vốn là một học
sinh. Câu chuyện kéo dài, vô lý như những cuộc chiến tranh dài đến gần
như bất tận. Câu chuyện là chuyện của một ông thày đi ruồng bố, tiêu
diệt ngay chính đám học trò của mình. Câu chuyện là chuyện của một nhóm
bạn bè, sát cánh bên nhau ở những bước thập tử nhất sinh bỗng ra tay tàn
sát lẫn nhau. Câu chuyện là chuyện của một bầu không khí yên lặng thôi
miên trong lớp học khi học sinh ngồi lắng nghe những bài giảng ly kỳ dần
dà biến chuyển thành một bầu không khí đe dọa của những cuộc mất tích
mà trong đó mỗi học sinh đã quen với thói quen “đưa tay sờ báng súng.”
Câu chuyện là câu chuyện lan man từ buổi giao thời của chế độ phong kiến
cho đến lúc bước sang chế độ quốc gia dân chủ. Mọi vật đều xoay chuyển
và xoay chuyển với một tốc độ bàng hoàng, kinh dị. Tất cả những quan
niệm về cuộc đời, về chính trị, về luân lý và về những điều cơ bản nhất
đều biến đổi. Tiết tháo của những nhà Nho bị quật ngã vì những sự lừa
đảo của Realpolitik. Những quan niệm Lão, Trang khách quan, trung dung
bị đẩy vẹt đi vì những tiếng vọng thôi thúc từ thế giới bên ngoài. Những
tiếng kêu gọi của luận lý bị xô ngã nhào bởi những vận động khéo léo
bạo động hóa tình cảm của những kẻ đã quá lâu phải chịu bất công. Những
cơn sóng tạo thành do những sự xung đột kịch liệt của suy tư và hiện
trạng loan ra cùng khắp từ Hà Nội cho đến tận những vùng rừng rú hoang
sơ như Bái Thượng. Khung cảnh cứ biến dần, biến dần từ những bài học
lịch sử của Napoleon, từ những nhì nhằng vớt vát của đế quốc Pháp khi
chánh quyền thực dân đang ngã nhào cho đến những ngờ nghệch khiếp hãi
của việc Hoa Kỳ can thiệp.
Câu chuyện thật dài là vì câu chuyện của một thế hệ, nhưng câu chuyện
không thể kể một lúc mà phải chuyển thành hồi. Mỗi hồi mở ra và rồi từ
từ khép lại. Không phải không còn gì để kể mà là vì câu chuyện phải khép
lại để nhường chỗ cho những hồi kế tiếp. Thảm kịch to lớn nhất, ám ảnh
nhất được đưa lên đầu và rồi màn ảnh to tát được khép dần, khép dần, đi
sâu vào ký ức của người kể và lại từ từ mở ra nối kết điểm đầu với điểm
cuối, từ thuở ấu thời cho đến những sự kiện sau cùng và rồi hình ảnh
được hoàn toàn hợp nhất, hoàn toàn quyện lại với nhau như một bức tranh
vĩ đại và bi thảm. Câu chuyện từ nhịp, từ nhịp như nhịp điệu của tâm
hồn, của con tim. Câu chuyện vẽ qua vẽ lại như một đồ thị tuần hoàn của
đời sống. Chuyện kể như ám ảnh của một bức tranh truyền thần khi đã ra
khỏi tầm mắt thì để lại âm ba của một cái gì đứt đoạn. Đọc xong có lẽ
không thể nhớ được chuyện được kể từ đoạn nào vì tất cả đều nối liền như
một vòng tròn khép kín.
Có lẽ nhịp điệu tuần hoàn của người kể chứng tỏ người kể đã bị ám ảnh
vì nhịp điệu tuần hoàn của sự bất công. Có lẽ người kể đã mong mỏi tìm
kiếm một sự tuần hoàn của lịch sử trong suốt cuộc đời. Cuộc đời người kể
luôn luôn phải đứng vào nghịch cảnh, phải tìm những gì không hiện hữu.
Người kể đã đi tìm ảo ảnh trong suốt cuộc đời và dĩ nhiên ảo ảnh đó, nếu
hiện hữu cũng không thực sự nằm trong tầm tay người kể. Có thể lịch sử
sẽ đến cùng người kể trong tương lai, nhưng lịch sử đã không ở cùng
người kể trong suốt cuộc đời. Có thể lịch sử sẽ tuần hoàn, nhưng chu kỳ
tuần hoàn đó dài quá, dài hơn tầm với của thế hệ người kể. Câu chuyện
của người kể là câu chuyện của một kẻ đi tìm và đã tìm suốt một cuộc
đời. Mục tiêu của cuộc tìm kiếm có thể là ảo ảnh nhưng chính sự đi tìm
đã tạo nên ý nghĩa.
Trong suốt cuộc đời người kể, dường như mỗi bước đi là mỗi bước gấp
rút không thể trở về. Mỗi điều trông thấy là mỗi điều ám ảnh không quên.
Những chỗ đi qua bỗng thình lình mất đi: “Phủ Lý không còn nữa… Nó đã
bị chính dân làng đốt cháy trong một cuộc chiến tranh tiêu thổ, dưới sự
chỉ huy của Võ Nguyên Giáp.” Những người vừa mới trông thấy đã tự nhiên
vĩnh viễn chẳng bao giờ còn được gặp: “Một khi chúng tôi đã ở hai bên
làn ranh giới Pháp Việt thì không ai có thể quả quyết được ngày gặp lại…
Định mệnh đã không bỏ qua cho gia đình chúng tôi cũng như đã không hề
bỏ qua cho bao nhiêu những gia đình người khác.” Cuộc đời người kể là
một cuộc đời luôn bị xô đẩy, dồn ép. Khi thì ngược mạn Lào Kay, lúc thì
lênh đênh trên giòng sông Đáy. “Lúc đò lướt qua các vùng làng xóm, tâm
sự của tôi cũng cay đắng như mùa đông bên ngoài… Mọi người đang tham gia
trong một cuộc chiến mà chính tôi cũng rất muốn được góp phần. Nhưng
'họ' đã ép tôi… Je suis un Évadé… Tôi là kẻ phản bội.”
Trong khi vượt qua tất cả các đoạn đường tác giả đã không quên mà vẫn
nhớ. Nhớ để kể. Từ chiếc máy bay P–38 năm 1945 cho đến cuộc tuyên án tử
hình Việt Nam ở Capitol Hill. Từ thế giới tao nhã trừu tượng của những
cơn đam mê toán học cho đến những xác chết đói dọc theo hai bên vỉa hè
Hà Nội năm 44–45. Từ những mơ ước ngây thơ của những thiếu niên bên lửa
trại bập bùng mơ tưởng về những luân lưu truyền thống lịch sử của dân
tộc cho đến những cay đắng khi hoài bão dân chủ cuối cùng sụp đổ.
Trong cuộc chia cắt cuối cùng , người kể không còn dính liền được với
đất nước. Đất nước trong cơn dãy chết đã xô đổ tan tành hoài bão của
cuộc đời người kể. Như những vòng tuần hoàn bắt buộc, những giòng người
lại đổ xô, dày xéo lên nhau, chẳng khác nào những giòng người tản cư đã
xô đẩy nhau ra khỏi Hà Nội trong cuộc chiến tranh chống Pháp, nhưng lần
này người kể không còn là người trong cuộc. Vẫn những quận lị nối tiếp
theo nhau xóa tên trên bản đồ nhưng người kể đã chuyển thành một kẻ bàng
quan bất lực ngồi lịm trước màn ảnh truyền hình. Người kể vẫn xem,
nhưng xem ở phương vị tách rời, xem sự thật đang lên khuôn thành những
màn bi kịch. Và lần này, cũng chẳng khác gì những lần trước đây, người
kể lại bị hất vào những tư thế bàng quan bắt buộc.
Cả câu chuyện là câu chuyện của chết chóc. Cái chết của từng người
như cái chết của Phúc, của Đặng Vũ Chu, của Trương Tử Anh. Cái chết của
từng đoàn người như những đợt bạn bè người kể thi nhau ngã gục ở dọc
sông Hồng Bắc Việt. Cái chết của các làng mạc, quận lị như Phủ Lý. Cái
chết của những ước mơ, hoài bão trong tâm hồn các chính khách quốc gia
như Bác Sĩ Quát. Cuộc đời của người kể dường như cuộc đời của một chứng
nhân nhìn quê hương qua cơn hấp hối. Những giòng người xuôi Nam, những
người cùng thế hệ, dường như tất cả đều chết, chỉ còn lại một nhân chứng
khắc khoải với thời gian dài dằng dặc –Người Kể.
Câu chuyện ấp ủ một nỗi buồn triền miên vì là câu chuyện chết chóc
của một thế hệ. Nhưng người kể luôn luôn tin tưởng ở tương lai. Cũng như
những vòng tuần hoàn hoán chuyển trước mắt, người kể đã chờ, đã đỏ mắt
tìm trông nhưng khi biết rằng việc chờ không nằm trong tầm với thì người
người kể lại chấp nhận. Vì lẽ người kể tin rằng việc chờ sẽ xảy ra
trong tương lai. Cũng như người kể không nắm rõ được những định mệnh
trong quá khứ, người kể không thể cầm chắc trong tay việc xảy ra trong
tương lai.
Trong gọng kềm lịch sử, máu và nước mắt của một thế hệ đã đổ ra thành
một thiên bi kịch dài triền miên suốt một giòng đời và người kể kể lại
bằng tâm thức từng cuộc sống của những vết hằn mà chính bản thân mình
chứng kiến. Qua câu chuyện của người kể, những vết hằn quằn quại, di
động trong khổ đau của hố thẳm im lặng, nhưng người kể không hề quên họ.
Tất cả những gì đã mất, đã qua, đã khuất sâu trong âm ỉ của thời gian
đều còn sống, mặc dầu chỉ còn sống trong ký ức và người kể vạch dần ký
ức của mình để đưa ra những miểng đá hóa thạch cục cằn trong tâm tưởng.
Trong thế kẹp ác liệt của lịch sử những vết hằn từ từ hiện rõ, chỗ đỏ
ối, chỗ tím, chỗ thâm quầng, chỗ đen đủi, nhưng tất cả đều hiện diện. Và
những vết hằn đứng đó mãi mãi điểm tô cho lịch sử.
Falls Church, Virginia, 1987.
Phan Lê Dũng
Phan Lê Dũng
Liên kết đến sách, pdf: http://ebooks.neofob.org/JAWS/JAWS.pdf