Hàn gắn vết thương dân tộc để chống ý chí xâm lược của Chủ nghĩa Cộng Sản Đại Hán
Trần Phương Bình
-
Chúng ta đang tiến đến gần ngày 20 tháng 7, ngày mà các đại biểu tham dự
Hội nghị Genève hạ bút ký Hiệp định đình chỉ chiến sự Đông Dương, trong
đó có điều khoản về chia cắt đất nước Việt Nam làm hai miền.
Năm nay, chúng ta tiến đến ngày đó trong một hoàn cảnh rất nóng bỏng:
Những đoàn tàu khoác áo “dân sự” ào ạt tiến vào vùng biển nước ta, nơi
mà bọn Trung Cộng vừa trắng trợn đưa ra “mời thầu” khai thác dầu khí.
Đây là đạo quân của “chiến tranh nhân dân” theo kiểu Mao Trạch Đông, lấy
thịt đè người, không khác gì những đoàn thủy binh của triều Nguyên năm
xưa ào ạt tiến vào Bạch Đằng Giang để thực hiện mưu đồ xâm lược nước ta.
Dù đại biểu của các phái đoàn tham dự Hội nghị Genève về Đông Dương có
ký hay không ký vào bản Hiệp định, nhưng họ đều phải chấp nhận và sống
trong một sự kiện không thể chối bỏ, là nước Việt Nam chúng ta bị chia
làm hai miền, và họ đều phải chấp nhận một sự thực là, sau Hiệp định
đình chỉ chiến sự Đông Dương này, thì cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt: Cuộc
chiến giữa một bên là Miền Bắc, tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa được
Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn, còn một bên là Miền Nam, tiền đồn của
phe theo chủ thuyết chống lại nguy cơ dây chuyền đô-mi-nô cộng sản được
Mỹ cùng với các đồng minh của Mỹ hậu thuẫn và trực tiếp tham chiến.
Trên mạng hiện có nhiều bài tranh luận của các nhà nghiên cứu về chủ đề
“Tên gọi cuộc chiến tranh Việt Nam”, trong đó có các nhà nghiên cứu Việt
Nam ở trong nước hoặc đang ở nước ngoài, và cả các nhà nghiên cứu ngoại
quốc. Tôi cũng đã đọc có thể nói là hầu hết những bài tranh luận đó.
Tôi không muốn bàn về cuộc chiến tranh Việt Nam theo quan điểm nào thuộc
các bài viết mà tôi vừa nhắc tới ở trên các diễn đàn. Vì sa đà vào đây
luôn gây ra những cuộc tranh luận không bao giờ chấm dứt. Tôi chỉ viết
theo những gì mà chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng bằng cách tìm đọc
theo những văn kiện chính thức: báo Nhân Dân, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam, và những gì viết trong sách giáo khoa dạy ở các
trường trên đất nước chúng ta.
Theo tất cả các tài liệu này, chúng ta dễ dàng tìm đọc được những điều có thể tóm tắt như sau:
- Cuộc chiến tranh trong giai đoạn 1946-1954 là cuộc kháng chiến chống
thực dân xâm lược Pháp. Để giương cao ngọn cờ dân tộc, từ 1946-1951,
Đảng Cộng sản tuyên bố giải tán. Có thể nói, trong những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Pháp, đại bộ phận dân tộc đi theo ngọn cờ giải
phóng dân tộc của Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh.
- Sau chiến thắng biên giới 1950, Đảng trở lại hoạt động công khai trên
chính trường với tên gọi là Đảng Lao Động Việt Nam, và trên báo chí
kháng chiến đã công khai thể hiện lập trường dựa hẳn vào phe xã hội chủ
nghĩa. Cuộc chiến tranh chống Pháp từ đây chính thức mang màu sắc ý thức
hệ. Lực lượng kháng chiến bắt đầu bị phân hóa. Nhiều người đã rời bỏ
hàng ngũ kháng chiến ra ẩn dật ở nước ngoài cho đến cuối đời, hoặc được
tập hợp dưới ngọn cờ khác chống lại khuynh hướng xã hội chủ nghĩa ở
trong nước.
- Với Hiệp định Genève, đất nước bị chia thành hai miền. Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục lãnh đạo công cuộc kháng chiến để thống nhất đất nước
theo đường lối xã hội chủ nghĩa.
- Cuộc chiến tranh 1960-1975, tuy gọi là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nhưng trong hàng loạt văn kiện mà chúng ta rất dễ dàng tìm đọc
được ngày nay, thì nó được gán cho một sứ mạng quốc tế cao cả, là bảo vệ
phe xã hội chủ nghĩa với tư cách là một tiền đồn của phe xã hội chủ
nghĩa. Trong nhiều cuộc học tập chính trị thời đó, chúng ta luôn được
quán triệt tư tưởng về ý nghĩa quốc tế của cuộc chiến tranh Việt Nam, là
bảo vệ phe xã hội chủ nghĩa, và như thế càng khẳng định, cuộc chiến
tranh ngày càng mang đậm màu sắc ý thức hệ.
Trong cuộc chiến tranh để giữ vững tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa,
các hậu phương lớn của phe xã hội chủ nghĩa, là Liên Xô và Trung Quốc,
mà trực tiếp là Trung Quốc, đã dốc một nguồn lực không nhỏ để tăng sức
chiến đấu của quốc gia tiền đồn này. Nói cho cùng, là họ làm công việc
mà họ nói là “giúp đỡ” Việt Nam, nhưng thực ra là để bảo vệ cho sự an
ninh của chính bản thân họ và của toàn phe xã hội chủ nghĩa.
Trong bài viết “Đã đến lúc phải xóa món nợ ân oán giang hồ!” đăng trên
Bauxite Việt Nam nhân Quốc khánh Trung Cộng, ngày 1 tháng 10 năm 2011,
tác giả Vũ Cao Đàm đã mạnh dạn nêu lên sự thực này, để xác quyết một
điều rằng: Dân tộc Việt Nam không nợ nần gì Trung Cộng cả. Chỉ có Trung
Cộng mới là kẻ nợ xương, nợ máu dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã đứng
làm tiền đồn bảo vệ cho Trung Cộng được yên ổn để lớn mạnh. Chính Trung
Cộng mới là kẻ vô ơn bạc nghĩa, mới là kẻ dĩ oán báo ân, xưng hùng xưng
bá với dân tộc Việt Nam và các nước trong vùng. Và chúng ta cũng phải
xác quyết một điều nữa rằng: Trung Cộng, cũng như chủ nghĩa Đại Hán ngàn
đời nay là giặc thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam.
Khi vướng trong đầu cái món nợ “ân oán giang hồ” này thì một số người
trong chúng ta vẫn lấn cấn cái “tình đồng chí”, như cái mũ kim cô xiết
vào đầu dân tộc Việt Nam… Và rồi, để bào vệ cái tình đồng chí đó, mà
Việt Nam phải cho các “đồng chí” trấn đóng Tây Nguyên; để bảo vệ cái
tình đồng chí đó, Việt Nam phải cho các “đồng chí” thuê cả mấy chục ngàn
hecta rừng đầu nguồn, phải cho các đồng chí “thắng thầu” tới 80% số dự
án xây dựng các công trình công nghiệp, để tàu bè của chúng, với danh
nghĩa nuôi cá, tung hoành ngang dọc ở một cứ điểm huyết mạch về quân sự
là quân cảng Cam Ranh,… Và cuối cùng, vì để bảo vệ cái tình đồng chí đó,
mà ngày nay đã có tới hàng chục vạn tên giặc Hán ngang nhiên giày xéo
đất nước Việt Nam, chìa ra đủ các trò “mua bán đểu” để triệt phá các
vùng nguyên liệu công nghiệp của Việt Nam, triệt phá sức kéo của dân
nghèo Việt Nam, tàn phá môi trường Việt Nam, và còn tổ chức những cuộc
đánh hội đồng (theo nghĩa đen) dân lành Việt Nam; chúng hoành hành khắp
các vùng đất biển của Việt Nam, đóng vai từ “sư đểu” lang thang khất
thực trên các bến xe Việt Nam để dò la nhòm ngó, rồi “ngư dân đểu” để
làm tình báo ở các quân cảng của Việt Nam, “thầy lang đểu” để gieo rắc
nguy hại cho sức khỏe và giống nòi Việt Nam đến các hạng “đại gia đểu”,
“sinh viên đểu” và “đại trí thức đểu”, lân la suốt từ Sài Gòn ra Hà Nội,
suốt từ Hà Giang, Cao Bằng cho đến Cà Mau, từ Vũng Rô cho đến Lâm Đồng,
từ Hoàng Sa, Trường Sa cho đến quê hương kháng chiến, từ rừng U Minh,
bưng biền Đồng Tháp đến chiến khu Việt Bắc.
Chúng ta đang tiến dần tới ngày 20 tháng 7. Tôi viết những dòng tản mạn
này để chia sẻ nỗi đau với tất cả những ai yêu nước thương nòi, với lòng
mong mỏi, tất cả chúng ta hãy gắng gạt bỏ sự cố chấp về ý thức hệ sang
một bên, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, người đã dũng cảm tuyên bố giải
tán Đảng Cộng sản Đông Dương, để giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc,
cùng nhau bảo vệ xã tắc sơn hà. Kiên quyết không nghe theo Trung Cộng,
kiểu như trong một bản tuyên bố chung nào đó, gọi những người không cùng
ý thức hệ là “thế lực thù địch” của hai đảng “anh em”, rất ngại dân
chúng biểu tình thể hiện lòng yêu nước mà xao lãng ý chí chống quân xâm
lược Trung Cộng, dung túng cho bọn tham nhũng và các nhóm lợi ích nhân
danh Đảng và Nhà nước cướp bóc và hà hiếp dân lành, … để đến mức, mỗi
ngày Đảng một xa dân, thậm chí phải lo cảnh giác với dân, mỗi ngày dân
một quay lưng lại với Đảng, khinh miệt đảng viên cầm quyền, … Chưa bao
giờ, kẻ thù Trung Cộng thành công như bây giờ trong mưu đồ chia rẽ Đảng
với dân. Không ai khác, mà chính bọn cộng sản Đại Hán mới là thế lực thù
địch đang phân hóa và tận diệt Đảng và dân tộc Việt Nam.
Tôi nhớ đến một ngày đông năm 1951, được đọc một bài thơ trên tờ báo
kháng chiến. Bài báo được viết trong bối cảnh phân hóa rất mạnh của lực
lượng kháng chiến, hàng loạt người bỏ căn cứ địa kháng chiến để vào các
thành phố, nơi quân Pháp chiếm đóng, và cũng là nơi một chính phủ chống
cộng của Cựu Hoàng Bảo Đại được thành lập. Báo chí kháng chiến gọi đó là
ngụy quyền bù nhìn tay sai của Pháp, nhưng trên thực tế, Chính phủ này
đã tập hợp được một lực lượng không nhỏ những người rời bỏ kháng chiến,
và những người đã từ chối cộng tác với chính phủ Hồ Chí Minh ngay từ đầu
cuộc Cách mạng Tháng Tám. Bài thơ gọi những người rời bỏ kháng chiến là
“những đứa con hoang”. Tôi xin trích đoạn bài thơ mà tôi còn nhớ như
vừa mới đọc ngày hôm qua, và xin họa lại để chia sẻ tình cảm xót xa với
những người con của Tổ Quốc:
Bài thơ kêu gọi lòng căm thù chủ nghĩa Thực dân xâm lược Đại Pháp
(Trích)
….
Thế mà dọc đường Hà Nội - Hà Đông
Đi về khối đứa lòng không căm thù
Họ an thân tủi phận
Được tụi Pháp nó ru
Bằng phim ảnh hủ hóa
Bằng đàng điếm lu bù
Không gian che lấp sương mù
Họ không nhớ rõ Mùa Thu huy hoàng
Nên họ không kháng chiến
Thích mặc đẹp ăn sang
Họ không có Tổ quốc
Họ là đứa con hoang
… (Hết trích)
Bài họa kêu gọi lòng căm thù chủ nghĩa Cộng sản xâm lược Đại Hán
….
Thế mà trước bão táp Biển Đông
Mắt lòa khối đứa lòng không căm thù
Họ vênh vang danh phận
Được Cộng Hán nó mua
Với đồng tiền ô nhục
Bán rừng biển lu bù
Không gian che lấp sương mù
Họ đã phản bội Mùa Thu huy hoàng
Nên họ ca “Bốn tốt”
Tụng “Mười sáu chữ vàng”
Họ bán rẻ Tổ quốc
Họ là đứa con hoang
….
Thế hệ chúng tôi nhớ lại rất rõ, trong những ngày đầu kháng chiến chống
thực dân xâm lược Pháp, ranh giới “địch - ta” là rất rõ ràng. Đến khi
Đảng đề cao “tình anh em” với các quốc gia cùng ý thức hệ xã hội chủ
nghĩa thì ranh giới ấy dần dần bị nhiễu. Chợt nhớ một ngày đầu năm 1975,
khi còn làm việc ở Ủy ban Khoa học Nhà nước, tôi đã được nghe một quan
chức rất lớn của Đảng đến nói chuyện thời sự. Vẻ mặt ông ta rạng rỡ báo
tin: “Rất mừng là quân đội của đất nước Trung Quốc anh em đã giúp chúng
ta lấy lại Hoàng Sa từ tay quân Ngụy”… Đến khi nghe có tiếng lao xao
trong hội trường thì ông hạ giọng… “Bây giờ thì cứ để bạn giữ hộ, ..”,
rồi ông kéo dài giọng… “sau này giải phóng hoàn toàn đất nước thì bạn sẽ
bàn giao lại cho ta thôi”. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi, một
người ở địa vị cao như vậy mà mơ hồ “địch - ta” như thế! Đáng tiếc, sự
mơ hồ ấy vẫn còn kéo dài cho đến ngày nay, …mơ hồ đến mức một quan chức
có hàm có vị của Bộ Ngoại giao trấn an trí thức: các sự việc Trung Quốc
ngang ngược với Việt Nam chỉ là “yêu con cho đòn cho vọt” mà thôi.
Đến đây, có lẽ chúng ta cũng không quá ngạc nhiên khi một ông thủ tướng,
đảng viên của một cái “Đảng anh em” nào đó sai đại diện của mình trong
một hội nghị quốc tế, bán rẻ “Tình hữu nghị đặc biệt” với Việt Nam để
ủng hộ Trung Cộng lấn lướt trên Biển Đông. Chúng ta cần biết ơn cái
“Đảng anh em” này về sự kiện đó, bởi vì nó đã nói toẹt ra một sự thực,
rằng: Không có “đồng chí” nào hết, chỉ có quyền lợi của cá nhân người
cầm quyền và dân tộc họ. Người ta sẵn sàng bán rẻ “đồng chí” để mưu cầu
miếng cơm manh áo cho họ và dân tộc họ mà thôi.
Tôi vẫn tin tưởng rằng, những người đang lấn cấn về cái tình “anh em -
đồng chí” nguy hại kia, đến một ngày nào đó chắc chắn sẽ nhìn ra bi kịch
của dân tộc, dám từ bỏ những đồng tiền ô nhục thu được nhờ bán rừng bán
biển và cái mũ kim cô “cùng ý thức hệ” với quân xâm lược Cộng sản Đại
Hán và trở về hàng ngũ dân tộc để bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc.
Hơn bao giờ hết, nhớ đến ngày 20/7, mong mỏi Đảng, trong vị trí lãnh đạo
của mình hiện nay, hãy giương cao ngọn cờ tiên phong trong sự nghiệp
đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp chống bọn Cộng sản xâm lược Đại Hán
cứu nước.
T. P. B.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.