Thụy My
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng. DR
Chuyến đi Mỹ của Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh theo lời mời
của Hoa Kỳ, nhất là sau sự kiện Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan
Hải Dương Thạch Du 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tại Hoàng
Sa, được nhiều người chờ đợi nhưng mãi vẫn không thấy động tĩnh gì.
Trong khi mới đây lại bất ngờ có tin ông Phạm Quang Nghị, ủy viên Bộ
Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội viếng thăm nước Mỹ.
Có dư luận cho rằng bên cạnh xu hướng mở rộng về phía phương Tây,
chuyến đi của nhân vật này còn nhằm nâng cao uy tín trong cuộc chạy đua giành ngôi thứ tại Đại hội Đảng lần thứ 12 sắp tới.
Chúng tôi đã đặt câu hỏi về vấn đề trên với nhà bình luận Phạm Chí Dũng ở Saigon.
RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Anh có nhận định như thế nào về chuyến đi Mỹ khá bất ngờ của ông Phạm Quang Nghị ?
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng : Đúng ra là ông Phạm Bình Minh đã được đi Mỹ vào tháng 5/2014, sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc
và sau lời mời cấp tốc của ông John Kerry, Ngoại trưởng Hoa Kỳ. Nhưng
điều ngạc nhiên là hơn hai tháng qua, ông Phạm Bình Minh đã chẳng đi đâu
cả, thay vào đó là một ủy viên Bộ Chính trị, cấp cao hơn hẳn so với
ông. Chỉ có điều là người cùng họ với ông Phạm Bình Minh lại không hề
đảm trách công việc ngoại giao, mà lại là người của khối Đảng.
Người ta dễ suy luận, có thể đây là quan hệ chỉ giữa các đảng chính
trị với nhau thôi, mà không phải thực hiện công việc ngoại giao thường
thấy như ông Phạm Bình Minh. Có lẽ là càng không phải giải quyết một vấn
đề gì thuộc về mối quan hệ xung khắc ở Biển Đông, mà Hoa Kỳ là một
thành tố tham gia cùng với Việt Nam.
RFI : Nếu như vậy, chuyến đi này theo anh có mục đích gì ?
Người ta đang cân nhắc về một số mục đích của ông Phạm Quang Nghị. Vì
đây là một sự xuất hiện đột ngột và khá kỳ lạ – theo dư luận là như
vậy. Sự xuất hiện của ông Phạm Quang Nghị trong bối cảnh này đã dấy lên
hàng loạt câu hỏi, cũng như cách đây đúng một năm, vào tháng 7/2013 sự
xuất hiện tương đối bất ngờ của ông Trương Tấn Sang ở Nhà Trắng. Nhưng
dù sao đó cũng là một cuộc gặp chính thức với Tổng thống Barack Obama.
Còn lần này thì có lẽ ông Phạm Quang Nghị đến chỉ với một tư cách ẩn
giấu nào đó, vì chuyến đi của ông thực hiện từ ngày 21/7, nhưng đến hơn
hai ngày sau báo chí Việt Nam mới đưa tin,
và cũng chỉ đưa tin một cách dè dặt. Trong khi đó, báo chí nước ngoài
gần như không thông tin về chuyến công du của ông Phạm Quang Nghị. Điều
đó gợi cho người ta những câu hỏi là ông Phạm Quang Nghị với vai trò gì
và với những mục tiêu như thế nào ?
Theo tôi, có lẽ chuyến đi của ông nằm trong bối cảnh ông Phạm Bình
Minh chưa được đi Mỹ, và mới cách đây một tháng đã diễn ra chuyến đi đến
Hà Nội của Dương Khiết Trì – ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc.
Điều này cho thấy có lẽ những người
bên Đảng đã thấy rằng, đến lúc này họ phải nâng cao tinh thần và vai
trò của họ : vai trò Đảng lãnh đạo toàn diện, chứ không phải là Chính
phủ. Chính phủ chỉ đóng vai trò quản lý, và nhân dân cùng lắm chỉ là vai
trò « làm chủ » mà thôi. Còn trên hết, cao hơn tất cả vẫn là Đảng.
Lý do thứ hai theo dư luận, hiện nay mối quan hệ Việt Nam và Mỹ dường
như đang xích lại gần nhau. Đặc biệt là sau những vụ xung đột giữa
Trung Quốc và Việt Nam tại Biển Đông, làm cho ngay cả những người bảo
thủ ở Hà Nội cũng phải nhận ra rằng họ không thể trông chờ quá nhiều vào
Trung Quốc, vào « Thiên triều ». Họ cần có một cánh tay hỗ trợ nào đó từ phía phương Tây, và Mỹ chính là một quốc gia năng nổ, tích cực nhất về việc này.
Chúng ta đã biết là vào trung tuần tháng Bảy, Thượng nghị viện Mỹ đã
biểu quyết nhất trí đến 100% bản nghị quyết số 412, yêu cầu Trung Quốc
trở về nguyên trạng trước thời điểm tháng 5/2014. Trước đó, phát biểu
tại trường đại học quân sự West Point, Tổng thống Barack Obama cũng đã nói thẳng khả năng Mỹ có thể điều binh lực tới khu vực Biển Đông, nếu tại đây xảy ra xung đột.
Điều đó cho thấy chỉ có Mỹ mới có thể là một đối tác chiến lược hoặc
một đối tác quân sự hỗ trợ cho Việt Nam trong hoàn cảnh này. Nó tác động
đến tâm lý những người bảo thủ ở Hà Nội. Chính vì vậy, họ đã quyết định
đi Mỹ.
Nhưng không phải ông Nguyễn Phú Trọng đi Mỹ, mà là ông Phạm Quang
Nghị. Tôi cũng muốn nhắc lại, trong năm 2013 ông Nguyễn Phú Trọng chưa
hề đặt chân đến Mỹ mà chỉ có ông Trương Tấn Sang gặp Tổng thống Barack
Obama. Và ông Nguyễn Tấn Dũng được coi là có một chuyến đi đàm phán về
TPP tại New York
với Bộ trưởng Thương mại Mỹ. Trong khi đó ông Nguyễn Phú Trọng chỉ đến
Thái Lan để thăm hỏi, làm việc với nữ Thủ tướng Yingluck – hiện nay đã
bị truất quyền, và đến một trường đại học Thái Lan để nhận tấm bằng danh
dự về chính trị học mà thôi.
Chính vì thế, bên Đảng có lẽ thấy cần phải nâng cao vai trò của họ,
và đã quyết định để ông Phạm Quang Nghị đi – ông cũng là một người được
coi là ứng cử viên sáng giá cho cương vị Tổng bí thư. Ông Phạm Quang
Nghị đi Mỹ, cũng là ra mắt chính giới Mỹ – ít nhất là có một chút diện
kiến.
RFI : Chúng
ta vừa đặt giả thiết chuyến đi này có liên hệ tới vấn đề Biển Đông hay
nhằm nâng tầm các nhân vật trong đảng, nhưng nếu theo dõi thì người ta
thấy các chính khách Mỹ mà ông Phạm Quang Nghị tiếp xúc không phải là
cao cấp lắm…
Đúng là như vậy. Có một điều đáng tiếc cho ông Phạm Quang Nghị là ông
đã không được gặp chính Ngoại trưởng Mỹ trong chuyến đi lần này, ít
nhất là cho tới giờ phút này. Thay vào đó, chỉ có Thứ trưởng Ngoại giao
Wendy Sherman tới gặp ông Nghị để chào và chuyển lời thăm hỏi của ông John Kerry.
Tại Washington, ông Phạm Quang Nghị đã có những cuộc làm việc với Cố
vấn cao cấp của Ngoại trưởng John Kerry là ông Thomas Shannon, và một
Phó cố vấn an ninh quốc gia phụ trách đối ngoại là ông Tony Blinken. Có
lẽ nhân vật cao cấp nhất mà ông Phạm Quang Nghị có được cuộc tiếp xúc là
Chủ tịch thường trực Thượng viện Mỹ Patrick Leahy và Thượng nghị sĩ
John McCain.
Như vậy, không có người đồng cấp nào ở Mỹ gặp ông Phạm Quang Nghị, như những nhân vật mà ông đã gặp ở Bắc Kinh cách đây mười tháng.
Tôi muốn nhắc lại, tháng Chín năm ngoái tại Trung Nam Hải, ông Phạm
Quang Nghị đã được tiếp thân mật bởi Trương Cao Lệ, ủy viên thường vụ Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc kiêm Phó thủ tướng Quốc vụ viện Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa. Và ông Phạm Quang Nghị còn hội đàm với ủy viên
Bộ Chính trị kiêm Bí thư Thành ủy Bắc Kinh Quách Kim Long. Khi đó, cả
Trương Cao Lệ lẫn Quách Kim Long đều ca tụng là « Đảng và Chính phủ
Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với
Việt Nam », « đánh giá cao sự phát triển mới trong quan hệ hai Đảng, hai
Nhà nước và nhân dân hai nước trong thời gian qua ».
Chỉ có điều, ông Phạm Quang Nghị là một người rất kín tiếng. Tất cả
những vụ việc mà khi ông Chủ tịch Thượng viện Mỹ Patrick Leahy cũng như
Thượng nghị sĩ John McCain nêu ra như chủ đề chính về Biển Đông, thì nghe nói là ông Phạm Quang Nghị đã không trả lời, hoặc né tránh. Và ở đây thì cũng vậy thôi.
Chúng ta biết là ở Việt Nam, những vụ tàu Trung Quốc cố tình đâm va,
gây hấn với ngư dân Việt, ông Phạm Quang Nghị đã gần như không hề lên
tiếng. Người ta có cảm giác ông không chỉ là một nhân vật kín tiếng, mà
còn là nhân vật « nín » tiếng. Điều đó hoàn toàn không có lợi cho ông,
ít nhất trong mối tương quan so sánh với ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng
Việt Nam.
Vì dù sao ông Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 11/2011 còn ra trước Quốc
hội, để gióng lên được một tiếng nói – dù là tiếng nói nhỏ nhoi và sau
đó không làm gì cả. Đó là việc cần phải có một bản nghị quyết về Biển
Đông về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, cũng như cần có Luật Biểu tình. Và
vào tháng 5/2014 tại Manila, Philippines, ông cũng đã đề cập một cách
bóng gió tới điều được gọi là « tình hữu nghị viển vông » đối với Trung Quốc. Mặc dù sau đó chưa thấy hành động gì tiếp theo, nhưng dù sao vẫn còn hơn các ủy viên Bộ Chính trị khác.
RFI : Tóm lại chuyến đi của ông Phạm Quang Nghị lần này có thể đưa ra một thông điệp như thế nào, theo anh ?
Có một dấu hiệu đáng chú ý như thế này. Ông Phạm Quang Nghị dù chỉ là
một ủy viên Bộ Chính trị thường, và chỉ là Bí thư Thành ủy Hà Nội,
nhưng những vấn đề ông đề cập trong chuyến đi này với Thượng viện Mỹ,
với Thượng nghị sĩ John McCain, lại mang tầm cỡ mà tôi có cảm giác như
của một nguyên thủ quốc gia. Đề cập tới những vấn đề của quốc gia, chứ
không phải của thành phố Hà Nội.
Chẳng hạn như mở rộng thị trường cho hàng hóa do Việt Nam sản xuất,
hay là hạ rào cản thương mại, khuyến khích đầu tư vào Việt Nam, và đề
nghị Mỹ thừa nhận kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Chúng ta
để ý là đề nghị thừa nhận là nền kinh tế thị trường trước đây chỉ có ông
Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cập với giàn Bộ trưởng
Thương mại Mỹ và những người đồng cấp.
Ngoài ra ông Phạm Quang Nghị trong buổi làm việc với Viện Dân chủ
Quốc gia và Viện Cộng hòa Quốc tế của Hoa Kỳ, cũng được mô tả là đã «
nêu bật ý nghĩa của quan hệ Đối tác toàn diện giữa hai nước, theo tinh
thần Tuyên bố chung Việt Nam – Mỹ, trong đó hai nước cam kết tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của nhau và khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan Đảng của hai nước ».
Báo chí Việt Nam tả khá trọng thị thế này : « Trên tinh thần đó,
ông (Phạm Quang Nghị) hoan nghênh những bước đi ban đầu nhằm tìm hiểu,
nghiên cứu khả năng trao đổi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các đảng
tham chính ở Mỹ trong thời gian tới ».
Như vậy là khẩu khí và những vấn đề mà ông Phạm Quang Nghị đề cập là
khẩu khí giống như của một nguyên thủ, và có thể còn cao hơn nữa : là
một Tổng bí thư Đảng. Điều đó cũng phù hợp với dư luận hiện nay, cho
rằng ông đang là một ứng cử viên sáng giá cùng với ông Nguyễn Tấn Dũng
cho chức vụ Tổng bí thư tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12
vào năm 2016 sắp tới.
Nếu việc này diễn ra, có lẽ mối quan hệ với giới chính khách Mỹ sẽ
tạo thuận lợi cho ông Phạm Quang Nghị. Và có thể thấy chuyến đi này cho
dù ông Nghị không tiếp xúc trực tiếp được Bộ trưởng Ngoại giao, và càng
không được diện kiến Tổng thống hay Phó tổng thống Hoa Kỳ, nhưng ông
cũng đã có buổi ra mắt đối với chính giới Mỹ. Ít nhất cũng để họ biết
ông là ai, và một ứng viên cho cương vị Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam là người như thế nào.
RFI : Như
vậy dù không được chính thức thông báo trước, nhưng có thể coi đây là
một nhân vật cao cấp đầu tiên trong đảng Cộng sản Việt Nam tiếp xúc với
Hoa Kỳ, trong khi các cuộc gặp gỡ trước đây thường chỉ từ phía Chính phủ
?
Hoàn toàn đúng. Khi phân công một nhân vật trong Bộ Chính trị, tất
nhiên người ta có thể tính tới cương vị Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng –
cũng là những ủy viên Bộ Chính trị, tất nhiên là cao cấp hơn Bí thư
Thành ủy Hà Nội. Nhưng tại sao lại là ông Phạm Quang Nghị đi, mà không
phải là ông Trương Tấn Sang hay ông Nguyễn Tấn Dũng ?
Điều đó gợi ra một ý : ông Phạm Quang Nghị có thể được coi là một «
thái tử đảng » trong thời gian sắp tới. Và ông Nguyễn Phú Trọng đã chọn
ông Phạm Quang Nghị thay vì ông Phạm Bình Minh để đi Mỹ, nhằm giới
thiệu, ra mắt chính giới Mỹ.
Thứ nữa trên bình diện chung, có thể khiến chúng ta hình dung là bối
cảnh đang dần chuyển biến. Thậm chí sắp tới có thể có những bước chuyển
biến tương đối đột biến về mặt chính trị. Như thế càng cho thấy là Việt
Nam đang dần dần âm thầm thực hiện một chính sách « xoay trục » sang
phương Tây. Đặc biệt là sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, lộ rõ ý đồ
thôn tính của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Vì ngay cả những người bảo thủ Việt Nam cũng đang phải tính tới việc
dựa vào Mỹ. Mặc dù họ không dám tuyên bố chính thức ra, nhưng hành động
của họ cho thấy điều đó. Và có một điểm thú vị thế này : chúng tôi có
cảm giác như là bối cảnh Việt Nam đang gần giống những gì mà Miến Điện
đã trải qua vào cuối năm 2010 bước sang năm 2011.
RFI : Anh có cho là Việt Nam cũng sẽ chuyển đổi như Miến Điện đã làm, dù chỉ một phần ?
Chúng ta biết là cuối năm 2010, ông Thein Sein đã trở thành Tổng
thống dân sự đầu tiên của Miến Điện. Đến năm 2011, ông đã phóng thích nữ
lãnh tụ đối lập của đảng Liên đoàn Quốc gia Vì dân chủ, bà Aung San Suu
Kyi. Và sau đó Miến Điện trải qua hàng loạt biến đổi, thậm chí được coi
là những biến đổi ngoạn mục, dân chủ hóa, mở rộng.
Gần đây nhất Miến Điện vừa chính thức hủy bỏ một dự án lên tới 20 tỉ
đô la của Trung Quốc – một dự án đường sắt chạy tới tận Côn Minh, bởi áp
lực dư luận từ người dân trong nước quá lớn.
Có một chút hy vọng là xu hướng chính trị Việt Nam đang chuyển đổi
dần như xu hướng của Miến Điện trong những năm qua. Mặc dù độ trễ chuyển
đổi của Việt Nam so với Miến Điện là khoảng ba năm, nhưng bắt đầu từ
bây giờ vẫn còn kịp !
Nếu chính quyền Than Shwe ở Miến Điện trước đây thấy rằng dứt khoát
phải chuyển đổi – và Than Shwe đã ủy nhiệm cho Thein Sein làm việc đó,
nếu không thì đất nước sẽ tan hoang, nội chiến, nền kinh tế sẽ sụp đổ –
thì những người cộng sản, tôi muốn nhấn mạnh là những người cộng sản bảo
thủ ở Việt Nam, có lẽ cũng đang nhận ra điều đó.
Thậm chí nhận ra một cách sâu sắc. Rằng tất cả những vấn nạn, những
hệ quả của xã hội Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam và sẽ dắt dây tới nền
chính trị Việt Nam, rất có thể sẽ sụp đổ trong những năm tới nếu không
thay đổi. Chính vì vậy, có lẽ là họ đang nghiên cứu kịch bản Miến Điện.
Làm thế nào để có một sự chuyển đổi yên bình, không đổ máu, mà họ vẫn
giữ được quyền lực. Tất cả vẫn còn hầu như y nguyên, chỉ chia bớt cho dân chúng một số quyền dân chủ nào đó.
Và nếu điều đó được thực hiện – tôi giả thiết là được thực hiện với
vai trò của ông Phạm Quang Nghị chẳng hạn – thì dù sao cũng có thể coi
đó là một tín hiệu tích cực. Như thế, chuyến đi Mỹ lần này của ông là
tiền đề cho những dấu hiệu tích cực sau này.
Mặc dù chưa thể nói là những người cộng sản bảo thủ ở Việt Nam họ đã
thực sự hồi tâm hay thành tâm, trước tất cả những việc cần phải làm cho
dân chủ hóa đất nước sắp tới. Nhưng dù sao theo tôi, trong giai đoạn vài
năm tới với những dấu hiệu đã chuyển biến từ bây giờ, sẽ là cơ hội cho
dân chủ, nhân quyền và xã hội dân sự ở Việt Nam.
RFI : Có lẽ khi đem giàn khoan đến Hoàng Sa, hệ quả mà Bắc Kinh không ngờ là việc Việt Nam « xoay trục » ?
Tất cả cần cô đọng ở một câu thôi : « Cám ơn giàn khoan Hải Dương 981 ! »
RFI : Xin rất cảm ơn nhà bình luận Phạm Chí Dũng đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ hôm nay.
Nhà bình luận Phạm Chí Dũng – Saigon
25/07/2014
by Thụy My