Nguyệt Quỳnh
Ngửa mặt lên trời
Như xác ngư dân trôi ngoài biển khơi.
Trôi theo con sóng vỗ
Trôi theo phận nước tôi
(Viết về ngư dân Việt Nam - Tuấn Khanh)
Gần đây lãnh đạo đảng lại vừa cho thực hiện các phong trào cổ động và
phát bằng khen cho ngư dân. Từ vụ bà Bộ trưởng Bộ Y Tế Nguyễn thị Kim
Tiến phát động chương trình “Ngành y tế cùng ngư dân bám biển” tại đảo
Lý Sơn, đến vụ Uỷ Ban Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng tặng bằng khen cho các
ngư dân tham gia đánh bắt bảo vệ chủ quyền vùng biển Hoàng Sa. Điều
nghịch lý là trong lúc lãnh đạo tiếp tục ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân
Việt Nam với súng ống, tàu sắt, tàu ngầm, tên lửa phải tuyệt đối bám
chặt bờ, thì ngư dân tay không, nghèo kiết xác, thuyền gỗ mong manh lại
được đẩy ra bám biển để bảo vệ chủ quyền đất nước?! Chắc chắn bà Bộ
trưởng Y Tế Nguyễn thị Kim Tiến chưa một ngày phải sống với nỗi lo sợ,
nỗi đau của những người vợ, người mẹ của ngư dân. Bà cũng chưa từng phải
nặn những hình nhân bằng đất để đắp cho chồng, cho con một ngôi "mộ
gió" trên đảo Lý Sơn (vì đã chết mất xác), nên bà mới có thể mạnh miệng
phát biểu: “Ngư dân còn, biển còn. Ngư dân khỏe sẽ tiếp tục bám biển,
tiếp thêm lực lượng, thêm sức mạnh bảo vệ quyền và chủ quyền về biển,
đảo của Việt Nam.”
Thử hỏi ngư dân tay không thì bám biển, bảo vệ chủ quyền biển đảo
bằng cách nào? Gặp tàu Trung Quốc họ đã phải chạy trối chết để thoát
thân, chạy không thoát thì bị chúng dùng tàu vỏ thép va đập, thậm chí
đâm chìm như tàu cá DNa90152 của vợ chồng bà Huỳnh thị Như Hoa. Có khi
chúng thản nhiên xả đạn bắn vào thuyền ngư dân bất cần có gây thương
tích hay thiệt mạng ai không, như trường hợp tàu cá của thuyền trưởng
Phạm Quang Thạnh. Có lúc chúng lại xấc xược, trắng trợn như trường hợp
mới xảy ra vào sáng ngày 3/7/14. Ngư dân của tàu cá QNg94912TS đang đánh
bắt ở vùng biển Việt Nam thì bị tàu Trung Quốc ép sát rồi bắt giữ. Xin
ghi lại nguyên văn lời tường thuật của thuyền trưởng Võ Tấn Tèo:“Đang
đánh bắt ở biển của mình, Trung Quốc bắt, dìu đi qua biển Trung Quốc,
rồi họ dừng lại, bắt ngư dân trên tàu chỉ vô máy định vị lúc đó hiện tọa
độ của họ, rồi họ quay phim, chụp hình vu khống mình đánh bắt trái phép
biển của họ.” Bị bắt và bị dẫn độ về đảo Hải Nam, tại đây các ngư dân
Quảng Ngãi bị buộc phải ký vào những biên bản sai trái trên rồi mới được
thả về. Toàn bộ ngư lưới cụ và gần 3 tấn hải sản đánh bắt được đều bị
phía Trung Quốc thu giữ với lý do các ngư dân này đã đánh bắt trên vùng
biển của chúng. Có những vụ ngư dân bị "quân nước lạ" giết chết nhiều
đến độ cả làng để tang như làng đánh cá Hoà Lộc năm 2005.
Suốt 10 năm trường đối diện với những hành động tàn ác bức hiếp ngư
dân ta của Trung Quốc, chẳng thấy nhà nước có bất cứ một động thái, một
biện pháp nào nhằm để bảo vệ ngư dân ngoài việc phát bằng khen và thúc
họ ra bám biển tiếp. Những tấm bằng khen của lãnh đạo đã trở thành hiện
thân của sự vô cảm, quá lạnh lùng đối với máu và nỗi thống khổ của ngư
dân. Nếu nhà văn Victor Hugo, tác giả cuốn “Những kẻ khốn cùng” (Les
Misérables), tái sinh ở VN không chừng lại có một tác phẩm vĩ đại về ngư
dân Việt. Và những kẻ khốn cùng này thực sự sẽ lấy hết nước mắt của thế
giới!
Khốn cùng vì gần như họ không có một chọn lựa nào khác. Cuộc sống khó
khăn đến nỗi nếu không ra biển thì kiếm sống bằng cách nào? Ra biển gặp
tàu Trung Cộng thì một mình, bơ vơ, đối phó làm sao được với tàu sắt và
súng ống. Đành để chúng tha hồ làm nhục; tha hồ đánh, cướp, phá, đâm
chìm, hay bắt giữ đòi tiền chuộc... Nhưng lết được về đến bờ, thoát chết
thì lại trắng tay, tài sản mưu sinh mất sạch. Về đến nhà để phải nhìn
cảnh gia đình đối diện với đói rách, với nợ nần chồng chất theo các
thiết bị đã mất. Có ai không khỏi mủi lòng khi chứng kiến hình ảnh đen
đủi thất thần của 13 ngư dân thuộc hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Ngãi vừa
được Trung Quốc thả cho về. Tiếng khóc nức nở của những người mẹ, người
vợ các ngư dân này đã dậy lên ở cửa sông Loan, huyện Quảng Trạch trong
buổi chiều đón họ về bến ngày 16/07 vừa qua.
Khốn khổ cho những người vợ trẻ, những đứa con thơ và cha mẹ già phập
phồng trông ngóng tin con từng ngày. Bây giờ một lần đưa chồng, đưa con
ra đi, họ biết đây có thể là lần cuối. Khi tàu các anh Võ Tấn Tèo, Lê
Văn Thun bị Trung Quốc bắt, mẹ anh Thun suốt ngày ra cửa biển Sa Huỳnh
ngóng tin con. Trong ngôi nhà nhỏ của anh, người mẹ chồng cùng cô con
dâu trẻ đang mang thai ngày nào cũng tràn nước mắt. Chị Thuỳ và anh Thun
vừa mới cưới nhau đầu năm, nghe tin vợ có thai anh bảo đi biển chuyến
này cố gắng kiếm tiền về cho vợ sanh nở. Gia đình bà Trần thị Mầy, mẹ
anh Tèo, cũng không khá hơn, bà thương đứa con dâu suốt ngày núp trong
phòng thui thủi khóc một mình. Bà lo lắng cho đứa con trai sợ nó bị
Trung Quốc đánh đập, hành hạ. Lo lắng hơn nữa cho con dâu, vợ anh Võ Tấn
Tèo, đang bụng mang dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở không có chồng bên
cạnh!
Khốn quẫn hơn nữa cho một đất nước mà chuyện ngư dân bị "tàu lạ" bắn
giết trong hải phận nước mình như vậy lại được người đứng đầu Bộ Quốc
Phòng xem là chuyện nhỏ, chuyện lục đục trong gia đình. Và vì là chuyện
nhỏ nên tàu hải quân VN sẽ chỉ bám bờ, không can thiệp.
Nhưng KHỐN NẠN nhất là những ngư dân tay không ấy lại được khen ngợi
là những "cột mốc sống". Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương
Tấn Sang như: “ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát
biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh
hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân
Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như
tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói,
trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như
những "cột bia xi măng" vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng
đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những "cột gỗ mục"
vô giá trị.
Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào
bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những "cột
mốc sống dở chết dở" ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các "cột mốc còn sống"
khác ra khơi trở lại.
Những mảnh bằng khen này làm nhiều người nhớ lại loại bằng khen dành
cho các bà mẹ liệt sỹ, các "bà mẹ anh hùng" đã hy sinh tất cả đàn con
của mình cho cuộc chiến "chống Mỹ cứu nước". Sau cùng, công trạng "giải
phóng miền Nam" là của đảng. Còn cái bằng khen và chỉ cái bằng khen là
của mẹ. Và mẹ ôm nó trước ngực, với hai hàng nước mắt ngồi bệt trên mảnh
đất duy nhất còn lại đang bị cưỡng chế.
Tôi tự hỏi sau Lý Sơn, Đà Nẵng,... sẽ còn bao nhiêu mảnh bằng khen khốn nạn ấy nữa treo rải khắp các tỉnh duyên hải Việt Nam?