Zachary Abuza | Asia Times
Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ. Dân Luận hiệu đính.
Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ. Dân Luận hiệu đính.
Ngòi nổ căng thẳng trên biển Đông đã tạm thời được tháo gỡ kể từ khi
Trung Quốc rút dàn khoan HD 981 ra khỏi vùng biển tranh chấp với Việt
Nam vào ngày 16 tháng 7. Nhưng việc đặt dàn khoan trong vị trí 130 hải
lý tính từ bờ biển của Việt Nam trong nhiều tháng trời của Bắc Kinh đại
diện cho một mối đe dọa gây chia rẽ nhất trong nhiều năm qua đối với
lãnh đạo Đảng Cộng sản Hà Nội.
Hà Nội cho thấy bản thân mình hoàn toàn bất lực không đối phó được sự
khiêu khích trên biển của Bắc Kinh. Hành động của Trung Quốc cũng vừa
đủ để tránh bất kỳ tiềm năng nào từ Hiệp hội Các Nước Đông Nam Á
(ASEAN).
Cả nước đoàn kết thành một mặt trận chống lại việc đặt giàn khoan.
Hoa Kỳ, giống như mọi lần, đã không tham gia đến nơi đến chốn. Thật vậy,
Trung Quốc đã thành công trong việc thuyết phục các nước khiếu kiện
khác trong vùng Đông Nam Á rằng Hoa Kỳ là một đồng minh không đáng tin
cậy trong cuộc tranh cãi tương lai trong khu vực.
Nhưng thiệt hại lớn nhất đối với Hà Nội là các hành động của Trung
Quốc phô bày sự xích mích lớn rộng giữa hàng lãnh đạo cao cấp của đảng
trong việc phải đáp ứng với gây hấn của Bắc Kinh như thế nào.
Giới lãnh đạo Việt Nam đã từng hy vọng một sự nhượng bộ ngoại giao từ
Trung Quốc khi uỷ viên Quốc vụ Dương Khiết Trì đến thăm Việt Nam vào
ngày 18-19. Tuy nhiên, chuyến thăm này không nhằm mục đích hòa giải khi
ông Dương mắng nước chủ nhà đã "thổi phồng" tình trạng và tuyên bố thẳng
thừng rằng Trung Quốc sẽ "thực hiện tất cả các biện pháp cần thiết" để
bảo vệ các giàn khoan. Ngay trong thời gian chuyến thăm này, Trung Quốc
cũng đưa một giàn khoan thăm dò thứ hai vào vùng biển tranh chấp.
Vào thời điểm đó, dường như Hà Nội đã sẵn sàng cho một cuộc chiến.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định rõ ràng là chủ quyền Việt Nam không
phải là để đánh đổi. "Việt Nam chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình,
hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều
thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ
thuộc nào đó."
Phe ủng hộ một chính sách đối ngoại quyết đoán hơn dường như đã chiếm
ưu thế. Một cuộc họp tháng 6 năm 2014 của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã hoàn toàn nhất trí lên án sự xâm lược của Trung Quốc.
Ông Dương tổ chức các cuộc họp với phó Thủ tướng, bộ trưởng Ngoại
giao Phạm Bình Minh và ông Dũng, cũng như với bí thư Đảng Cộng Sản
Nguyễn Phú Trọng. Trong khi Minh và Dũng duy trì một cách tiếp cận ít
thoả hiệp. Trọng, không ngạc nhiên chút nào, đã tỏ ra hòa giải hơn và
tập trung vào các quan hệ lâu dài và mối quan hệ giữa hai đảng.
Ngay sau khi Dương ra về, bộ Chính trị đã họp để hình thành cách giải
quyết. Một nhóm do Dũng và chủ tịch quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cầm đầu,
từng lớn tiếng trong những lần công khai kêu gọi Việt Nam chống lại
Trung Quốc, chủ trương đối đầu và tiếp cận cứng rắn hơn. Họ lập luận
rằng bất kỳ sự nhượng bộ nào với Trung Quốc chỉ khuyến khích thêm những
gây hấn trong tương lai và ủng hộ một chiến lược đa dạng bao gồm các
việc sau:
- Nộp một bản báo cáo lên Ủy ban Trọng tài Quốc tế, song hành với bản
báo cáo của Philippines vào tháng 3 năm 2014 từng làm Bắc Kinh tức
giận.
- Chủ động lãnh đạo khối ASEAN thúc đẩy một bộ luật ràng buộc về quy tắc ứng xử ở Biển Đông;
- Hình thành các mối quan hệ gần gũi, phối hợp hơn với Philippines và Indonesia.
- Tham gia các cuộc tập trận đa phương hơn, bao gồm cả với Mỹ, Ấn Độ, Indonesia và Nhật Bản;
- Phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với Mỹ và đàm phán về một quan hệ "đối tác toàn diện" rõ rệt hơn.
- Tham gia vào thỏa thuận thương mại quan hệ đối tác xuyên Thái Bình
Dương do Mỹ dẫn đầu (TPP), với các đòi hỏi phải cải cách kinh tế và khởi
sự đóng cửa các khu vực kinh tế nặng kiểm soát của Việt Nam, bao gồm cả
doanh nghiệp nhà nước;
- Phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với Nhật Bản. Có thể không công
khai tuyên bố ủng hộ việc tái diễn giải Điều IX của thủ tướng Shinzo
Abe, nhưng lặng lẽ khuyến khích một tư thế ngoại giao và an ninh chủ
động hơn trong khu vực.
- Chấp nhận việc kinh tế suy thoái do việc đầu tư thương mại ít hơn
với Trung Quốc, với tin tưởng rằng điều này sẽ ép buộc Việt Nam phải đa
dạng hóa các mối quan hệ kinh tế của mình và châm dứt mối nguy của các
quan hệ kinh tế lệ thuộc ở mức độ cao vào Trung Quốc. Các thành viên
khác của nhóm này bao gồm người ủng hộ cải cách Lê Thanh Hải (Bí thư
thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh), phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, phó Chủ
tịch Quốc hội, Nguyễn Thị Kim Ngân và Tòng Thị Phóng.
Chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Trung Quốc
Nhóm còn lại do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng dẫn đầu ít
sẵn sàng với việc khiêu khích hoặc làm bất cứ điều gì để gây căng thẳng
hơn nữa với Bắc kinh. Họ không đưa ra một chiến lược thực tế nào nhưng
chỉ lập luận rằng việc xoa dịu căng thẳng với Bắc Kinh sẽ phục vụ cho
lợi ích quốc gia trong dài hạn. Họ lập luận rõ ràng rằng Việt Nam không
đủ khả năng để đương đầu một cuộc xung đột với Trung Quốc và nhấn mạnh
đến mối quan hệ gần gũi về tư tưởng và lịch sử với Bắc Kinh. Họ bác bỏ
việc nộp báo cáo lên cơ quan trọng tài quốc tế và nghi ngờ ý định cùng
cách giải quyết của Hoa Kỳ. Điểm mấu chốt trong lập luận của họ là một
niềm tin ngây thơ rằng Trung Quốc sẽ thỏa hiệp và nhượng bộ trong tương
lai.
Chiến dịch làm giảm căng thẳng được sự tham gia của Huy Rứa, Ủy viên
Ban Bí thư, Lê Hồng Anh (thường trực ban bí thư), Ngô Văn Dụ (Chủ tịch
Ủy ban Kiểm Tra Trung ương), Đinh thế Huynh (Ủy ban Tuyên giáo) Phạm
Quang Nghị (Bí thư TP. Hà Nội), Nguyễn Thiện Nhân (Chủ tịch Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam), Trần Đại Quang bộ trưởng bộ Công an, có lẽ vì sợ hãi sự
bất mãn của đại chúng và các cuộc biểu tình tiếp tục sẽ khiến gây căng
thẳng thêm cho cuộc xung đột.
Hai cầu thủ nặng cân có thể làm nên một sự khác biệt. Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang có khả năng ủng hộ phe đa số. Ông là một trong những
người ủng hộ cải cách kinh tế hơn cả nhưng lại rất thận trọng với cuộc
xung đột. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh, người quân nhân cao
cấp nhất từng ủng hộ sự cần thiết phải theo đuổi một vụ kiện với Trung
Quốc nhưng lại thận trọng về sự phụ thuộc vào phương Tây. Nhận thức được
các lựa chọn giới hạn của Việt Nam, Thanh tham gia phe đa số và ủng hộ
sự thỏa hiệp.
Dù việc biểu quyết ra sao, kết quả có vẻ rõ ràng: Bộ Chính trị đã
thông qua một chính sách để giảm leo thang căng thẳng. Vào đầu tháng
Sáu, quyết định khởi kiện lên trọng tài quốc tế, dường như đã được thực
hiện với ủng hộ của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, và Chủ
tịch Quốc hội. Ngày hôm nay, quyết định đó có vẻ đã bị hoãn lại, chỉ
được nhắc đến như một giả thuyết bởi nhân viên Bộ Ngoại giao cấp trung.
Các nhà lãnh đạo cấp cao cực kỳ cảnh giác với cơn giận của Bắc Kinh nếu
nộp đơn kiện tương tự như Philippines. Hà Nội đã có nộp một đơn khiếu
nại với Liên Hợp Quốc nhưng việc khởi kiện chắc sẽ không xảy ra trong
tương lai gần.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Ngoại giao Minh hủy bỏ một chuyến đi từng dự
định theo lời mời của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại cao điểm cuộc căng
thẳng về giàn khoan dầu. Một phái viên tổng thống Mỹ đã phải đến Hà Nội
gặp Minh trong một cuộc gặp thấp hơn nhiều so với cuộc viếng thăm chính
thức tới Washington. Được giáo dục ở phương Tây, Minh bị Bắc Kinh xem
như một nhân vật thân phương Tây. Ông còn được biết đến là người có quan
hệ lâu dài với Kerry. Thạch cũng là con trai của Nguyễn Cơ Thạch, người
kiến trúc sư mở cửa Việt Nam vào thế giới phương Tây, nhân vật từng bị
các nhà lãnh đạo thân Trung Quốc cho ra chầu rìa sau sự sụp đổ của chủ
nghĩa cộng sản ở Đông Âu.
Hà Nội lặng lẽ công bố chuyến đi thăm Hoa Kỳ của Phạm Quang Nghị thay
cho Minh. Dù cũng là một uỷ viên Bộ Chính trị, nhưng chức vụ chính thức
của Nghi chỉ đơn giản là bí thư đảng tại Hà Nội, vì vậy trong các
nguyên tắc ngoại giao, tính chất chuyến thăm của ông là rất thấp. Nghi
có một công việc quan trọng phải thực hiện, đó là xác định mức độ cam
kết của Washington trong việc đóng một vai trò giữa cuộc xung đột tiềm
năng với Trung Quốc ở Biển Đông.
Hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong nội bộ 10 thành viên ASEAN
dường như đã bị thuần hóa với việc xuống thang, giảm căng thẳng. Các kêu
gọi về luật ứng xử trước đó của Hà Nội gần đây đã chuyển vào sau hậu
trường. Nói tóm lại, Việt Nam như đã rút lui khỏi chính sách cứng rắn
hơn với Trung Quốc trước đây. Thật vậy, cuộc khủng hoảng giàn khoan cho
thấy đa số Bộ Chính trị không sẵn sàng đứng lên chống lại Trung Quốc,
mặc dù câu chuyện lịch sử của đất nước được xây dựng bằng các cuộc chiến
đấu và đẩy lùi sự xâm lược của Trung Quốc.
Có bốn nguyên nhân được cho chính yếu:
1. Cái giá phải trả về kinh tế cho cuộc đối đầu tiếp tục là quá lớn.
Mặc dù Việt Nam đang cố gắng đa dạng hóa xuất khẩu của mình, Trung Quốc
vẫn là cầu thủ nước ngoài quan trọng nhất trong kinh tế và đóng vai trò
là đối tác thưong mại lớn nhất, chiếm gần 50 tỷ USD thương mại song
phương vào năm 2013. Số tiền đó tăng dần theo mỗi năm khi Việt Nam hội
nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc. Khoảng 10% hàng xuất
khẩu của Việt Nam, với chủ yếu thực phẩm và tài nguyên thiên nhiên, là
sang Trung Quốc. Trung Quốc đơn giản là quá quan trọng đối với kinh tế
Việt Nam vào thời điểm Ngân hàng Thế giới cho biết rằng đất nước đang có
biểu hiện kém, dưới tiềm năng của mình.
2. Việt Nam biết Trung Quốc sẽ không lùi bước trong tranh chấp Biển
Đông nhưng các chi phí của việc gia tăng căng thẳng và xung đột vũ trang
chỉ đơn giản là quá cao. Dù với quy mô giới hạn đến đâu, Việt Nam vẫn
thua trong bất kỳ cuộc xung đột quân sự nào trên biển. Và điều đó sẽ vừa
là tổn thất vừa là một sự sỉ nhục đối với giới lãnh đạo Đảng Cộng sản
của nước này.
3. Có một niềm hy vọng trong một số người rằng bằng cách nhượng bộ
trên quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc sẽ đáp trả lại trong quần đảo Trường
Sa. Nhưng đấy chỉ là một hy vọng điên rồ. Cụ thể là, người Việt Nam đã
nhượng bộ đáng kể về phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền của mình
với hy vọng rằng Trung Quốc sẽ hòa giải trong đàm phán về Vịnh Bắc Bộ,
nhưng tất cả đã không hề xảy ra. Thay vì thế, Trung Quốc còn gia tăng
hiện diện tại quần đảo Trường Sa, nạo vét ở năm đảo san hô riêng biệt để
tạo nên các hòn đảo nhân tạo.
4. Cả ủy viên quốc vụ Dương Khiết Trì và tổng bí thư Trọng đều đã nói
về tầm quan trọng của việc hai bên phải duy trì quan hệ thân thiện giữa
hai đảng và nhà nước. Đối với Trọng, trò chơi quan hệ hòa bình lâu dài
với người hàng xóm khổng lồ là quan trọng hơn các tài nguyên dầu khí
được cho là hiện diện ở Biển Đông.
Nguy cơ của sự nhượng bộ
Quyết định lùi bước của Hà Nội có ý nghĩa hết sức nghiêm trọng. Việt
Nam rõ ràng đã nhượng bộ Trung Quốc, một hành động hiển nhiên sẽ dẫn đến
sự gây hấn hơn nữa. Trung Quốc có khả năng sẽ tiếp tục thăm dò và dụ dỗ
những nhượng bộ ít nhiều trên thềm lục địa của Việt Nam, tạo nên các
"sự đã rồi" để củng cố học thuyết đường chín đoạn và hoàn tất chiến lược
bản đồ giả tạo của họ trên vành đai phía đông.
Những người chủ trương hòa giải thân Trung Quốc có thể tranh cãi rằng
chính sách ngoại giao rút lui lặng lẽ của họ có hiệu quả, như đã thuyết
phục Trung Quốc để giảm bớt căng thẳng vì lợi ích của sự ổn định trong
khu vực. Nhưng Trung Quốc đã di dời dàn khoan bởi vì chúng đã đạt được
mục đích của mình, cụ thể là:
- Họ đã tìm thấy một số tài nguyên dầu khí, rõ ràng đủ để biện minh cho việc trở lại khu vực này sau một thời gian;
- Họ đã chứng minh rằng họ có thể hành động, không bị trừng phạt và không ai có thể ngăn chặn được mình.
- Họ có thể bắt nạt người Việt Nam không được tham gia với Philippine trong việc tìm kiếm trọng tài quốc tế;
- Họ gieo hạt giống nghi ngờ trong khu vực về độ tin cậy vào Hoa Kỳ như như một đồng minh;
- Họ có thể rút dàn khoan ra để giữ thể diện vì sự xuất hiện sớm của các cơn bão lớn;
Khối ASEAN vẫn chia rẽ, không gần gũi hơn để thu hút Bắc Kinh phải ký
một thoả thuận ràng buộc về quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Với việc một
mùa mưa bão đến sớm và các cuộc đối đầu dự kiến sẽ diễn ra tại Diễn đàn
Khu vực ASEAN trong tháng tám, thời gian điểm là chín mùi để Trung Quố
rút dàn khoan ra sớm. Tuy nhiên, một phân tích như vậy sẽ mang lại mối
đe dọa cho chính bản thân chế độ. Hầu hết người Việt có thể không biết
được quyết định làm giảm căng thẳng của giới lãnh đạo. Họ có thể tìm các
cuộc va chạm gần như xảy ra hàng ngày giữa các hạm đội bảo vệ bờ biển
nhỏ của mình bị đánh đập tả tơi như là bằng chứng cho việc chính phủ vẫn
tiếp tục chống lại Trung Quốc. Tuy nhiên, mối đe dọa thực sự của việc
không dám đối đầu với Trung Quốc chính là mối đe dọa đến tính hợp pháp
của chế độ. Ý thức hệ cộng sản thì trống rỗng và chính phủ phải đáp ứng
được khát vọng ái quốc của người dân.
Nếu công chúng tin rằng lãnh đạo của mình đã đầu hàng, tính hợp pháp
của chế độ sẽ bị xói mòn nặng nề và nguy hiểm vào thời điểm kinh tế đang
tăng trưởng chậm. Đó là khi các cuộc biểu tình thực sự trên đường phố
nhắm vào cả Trung Quốc và chính phủ Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo
có thể nổ ra.
Quan trọng hơn, quyết định có khả năng gây nên những rạn nứt sâu hơn
trong các lãnh đạo đảng, vốn có thể có những tác động kinh tế rộng rãi.
Chiến dịch thân Trung Quốc sẽ tập trung vào các phụ thuộc lẫn nhau của
hai nền kinh tế, ngay cả khi Hà Nội đang vận hành dựa trên mức thâm hụt
thương mại 20 tỉ với Trung Quốc và chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô,
gạo thay vì sản xuất hàng hóa. Việt Nam có thể trở thành một trạm lớn
trong chuỗi cung ứng phía nam của Trung Quốc nhưng mối quan hệ thương
mại thì rất l không đồng đều.
Quyết định thỏa hiệp thay vì đối đầu với Trung Quốc cũng là một thất
bại của các cải cách kinh tế trong nước. Những người ủng hộ thỏa hiệp
với Trung Quốc vẫn còn thấy một vai trò hàng đầu của khu vực nhà nước
trong nền kinh tế mặc dù khu vực này rõ ràng là không hiệu quả. Họ tin
rằng những cải cách và các nhượng bộ do yêu cầu của Mỹ để được vào TPP
là quá lớn và sẽ đe dọa đến việc kiểm soát cứng rắn nền kinh tế của chế
độ hiện nay.
Phe cải cách xem TPP là chìa khóa để đa dạng hóa kinh tế thoát khỏi
Trung Quốc và đại tu các khu vực nhà nước. Trong tháng ba, Thủ tướng
Dũng đã chỉ thị các Bộ phải gia tăng tốc độ tư nhân hóa các doanh nghiệp
nhà nước. Chính phủ "cổ phần hóa" 74 doanh nghiệp nhà nước vào năm
2013, gấp ba lần con số của năm 2011 và 2012. Trong đầu năm 2014 chính
phủ công bố bán cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước chủ chốt, bao gồm
Vinashin, Việt Nam Airlines, và một số cảng biển.
Làm cho các công ty này trở nên có hiệu quả kinh tế là ưu tiên hàng
đầu của chính phủ khi các doanh nghiệp nhà nước sử dụng khoảng 50% đầu
tư công, chiếm 60% các khoản vay của ngân hàng và chịu trách hiệm cho
hơn một nửa nợ xấu của cả nước.
Cửa sổ cơ hội để Việt Nam nhập cảnh được vào TPP đang đóng cửa một cách nhanh chóng.
Còn một mối lo là hiện chỉ còn một hay hai cuộc họp Ủy ban Trung
ương, nơi các cải cách thực sự có thể xẳy ra trước khi các phần còn lại
của phiên họp toàn thể vốn sẽ bị chi phối bởi lịch trình cho đại hội
đảng tiếp theo và sẽ được tổ chức trong quý đầu tiên của năm 2016.
Thay đổi đó khiến Trung Quốc được hưởng lợi và ngăn trở các nhà cải
cách đang rất muốn giải quyết thách thức của Bắc Kinh bằng việc hiệu
chuẩn lại các chiến lược về quan hệ và kinh tế của đất nước.