Phạm Kỳ Đăng
Giàn khoan Haiyang Shiyou 981 kéo vào sâu lãnh hải biển Đông vấp phải
sự chống đối quyết liệt của người dân Việt Nam. Lãnh đạo cấp cao nhất
của Đảng và Nhà nước bị Trung quốc khóa chặt các huyệt trọng yếu, cứng
họng một thời gian dài, chỉ có Bộ Ngoại giao lên tiếng phản đối kịp thời
và kiên quyết nhất.
Giới am hiểu thời cuộc, cho rằng ngoại giao là kênh duy nhất để tranh đấu, „Kẻ yếu thì không có bao nhiêu vũ khí trong tay,
ngoại trừ việc dựa vào ngoại giao và luật quốc tế“ – nhà nghiên cứu
Carlyle Theyer bình luận. Các nước hầu như không can dự một lời, dẫu
rằng Việt Nam đã ký hiệp ước đối tác chiến lược với 14 nhà nước gì đó,
nhiều trong số đó cả cường quốc. Có điều Việt Nam, từ lâu khẳng định
muốn hội nhập, đều không có tiếng nói tương thanh và những thiết chế
tương ứng để giao lưu và liên thông với thế giới văn minh - dân chủ,
thật vô lý cho đến hôm nay vấn cố duy trì sự lệch pha về tổ chức và nhân
sự đối với các đối tác chiến lược còn lại, trừ Trung quốc.
Các nước hợp tác ấy có muốn bắt tay với Việt Nam cũng không dám, vì
các bộ các sở của họ chìa tay tới các cơ quan tương nhiệm của Việt Nam,
có khả năng lớn là nắm phải bộ phận đầu Ngô mình Sở, và các quan chức
của họ muốn mời chủ nhân đồng cấp sang thăm viếng, lắm khi đón phải con
hoang. Thêm một cản trở cực lớn, các nhà nước đối tác với Việt Nam phải
dè chừng Trung quốc. Trung quốc, tham lam, ngạo mạn và hung đồ không kém
gì phát xít, là đối tác chiến lược uy quyền nhất mà lãnh đạo Việt Nam
phải triều kiến trước khi đi lại với các nước khác.
Bộ ngoại giao Việt Nam cũng là một thứ đầu Ngô mình Sở đó trong thúc
ước luôn luôn phải hoạt động theo cơ chế phản ánh và nhận chỉ thị. Kênh
hoạt động này vô cùng hẹp, trong nhiều trường hợp có thể nói là vô tác
dụng nữa. Bộ trưởng từ thời sau ông Nguyễn Mạnh Cầm thôi không còn là ủy
viên Bộ chính trị, theo tôi hiểu còn đứng thấp hơn ông Trưởng ban đối
ngoại của Ban chấp hành trung ương Đảng. Thế cho nên, kiện toàn thành
một bộ máy cờ xí kèn quạt rợp trời, các quan chức ngoại giao có hàm bậc
cũng mũ áo cân đai, giầy bóng, kính mát đủ đường, người Bộ trưởng bộ
ngoại giao vẫn không thực hiện được đúng chức trách của một Ngoại
trưởng. Như thể cơ quan này thân một nơi, đầu một nẻo, người đứng đầu
trên chặng công vụ rất dễ bị túm tóc gạt sang bên. Trong quá khứ ta đã
chứng kiến ông Lê Đức Thọ bất ngờ sang Paris thay vào vị trí ông Bộ
trưởng Bộ ngoại giao Xuân Thủy bên bàn đàm phán, và gần đây nhất, Ngoại
trưởng Mỹ đích danh mời Bộ trưởng Phạm Bình Minh, và thật trái khoáy,
sang thăm Mỹ là ông Phạm Quang Nghị.
Và cũng chỉ là một cơ quan nhận chỉ thị, nên trong rất nhiều trường
hợp như vừa qua, lời tuyên bố phản đối Trung quốc xâm lấn lãnh hải của
Bộ ngoại giao, sớm bị phản thùng bởi diễn ngôn của ông Bộ trưởng Bộ quốc
phòng Phùng Quang Thanh tại diễn đàn Shangri-La và bởi lời tuyên bố của
ông đại sứ của Việt Nam Lê Hoài Trung tại Liên Hiệp Quốc đang có nhã ý
làm trung gian hòa giải xung đột Trung quốc - Việt Nam, cũng là nơi
ngành ngoại giao vươn ra xa nhất. Và cất cao tiếng nói ra thế giới bên
ngoài, dù có cố gắng khẩn nài tới mấy, Việt Nam vẫn bị nghi ngờ là quốc gia thiếu lòng thành thật.
Trước chuyến thăm của ông Phạm Quang Nghị, đúng trong lúc sự kiện giàn khoan trở thành sự đã rồi và có chiều hướng lắng xuống, báo chí chính thống rộ lên mấy bài
về sự nghiệp và con người ngoại giao của vị bộ trưởng giải vây Nguyễn
Cơ Thạch. Có người đánh giá, đây là hành vi nâng cao vị thế bên chính
phủ, của phủ chúa hay là của một nhóm lợi ích thân Mỹ. Các cách diễn
giải này đều phù hợp với hiện trạng tranh giành quyền lực trên tầng cao
nhất. Nhưng tôi cho rằng, hơn thế, đây còn là nỗ lực đòi vươn tới đúng
chức năng của một cơ quan cấp bộ độc lập đang đóng vai trò quan trọng,
trong tình thế Việt Nam bị vây khốn chỉ có thể đấu tranh bằng luật pháp
quốc tế.
Kể cũng khó đấu tranh bằng ngôn ngữ của những „lên án“, bác bỏ“, tố
cáo“ cũng như „hoan nghênh“, cổ vũ“. Và giữa những phát ngôn là tình
trạng lờ đờ khó hiểu, khi nhà nước Việt Nam, từ dạo được Liên Xô và
Trung quốc công nhận về ngoại giao vào năm 1950, phần lớn bỏ phiếu theo
Trung quốc, và nhiều thập niên theo đuôi những nước này bỏ phiếu trống
đối với các quyết định của Liên Hiệp Quốc.
Cho đến nay ngành ngoại giao luân phiên thay đổi vai tuyên giáo, lúc
đóng vai công tố, lúc nó đóng vai môi giới hay tháp tùng. Lĩnh vực ngoại
giao cũng được đưa lên làm mặt trận, như những mặt trận giáo dục, mặt
trận văn hóa, chỉ thiếu nước giống Mặt trận Tổ quốc về mặt tổ chức. Tin
tức từ mặt trận báo về dĩ nhiên toàn là thắng lợi vẻ vang.
Sau này lật lại những hồ sơ về Hội nghị Geneva, Hòa đàm Paris v.v.,
người khách quan ngoài cuộc chỉ thấy được cùng lắm là những thắng lợi
vớt vát, trong một cục diện thê thảm bày ở bàn cờ đại cường nhân nhượng
với Trung quốc bắt dân tộc Việt Nam trên hai miền chịu phần đớn đau,
thua thiệt.
Có thể trên „mặt trận ngoại giao“, đôi khi lóe lên một vài điểm sáng
nào đấy. Nhưng những điểm sáng này thường đi đôi với hỏa hoạn trên một
tấm vi mạch rằng rợ, bế tắc, phát cháy từ những mạch chập.
Ngoại giao tranh thủ lôi kéo có bao giờ được phép nói ngôn ngữ trung
thực. Cũng như Đảng chỉ đạo nó xưa cướp chính quyền với lời hứa „người
cày có ruộng“, rồi nuốt lời gần 70 năm nay. Hướng ra bên ngoài, ngoại
giao phải khẳng định lập trường, diễn ngôn các chính sách, chỉ thị của
tập thể não trạng cá sấu, u mê và độc đoán, chỉ thích nghe lời phỉnh
nịnh lọt lỗ tai mình. Ở chiều ngược lại, những góp ý, phê phán từ thế
giới bên ngoài cũng phải được quan chức ngoại giao bỏ đi hoặc „phiên
dịch“ lại cho vừa tai kẻ quyền thế, bởi thực tế, độc tài có coi ai ra
gì.
Nhà ngoại giao mang tầm vóc lịch sử Metternich có câu nói sâu sắc: „ Ý
kiến công luận, cũng như tôn giáo, là phương tiện quyền lực mạnh nhất,
tự nó xâm nhập vào góc khuất nhất, nơi các chỉ thị của chính phủ mất đi
mọi ảnh hưởng“.
Một nền ngoại giao loại trừ công luận, loại trừ tự do báo chí, ngôn
ngữ của xã hội dân sự là một nền ngoại giao thất bại. Nhà nước đói nghèo
lạc hậu, và quan trọng hơn, đàn áp nhân quyền và tự do báo chí, có gì
đâu mà chào mời, quảng bá. Cho nên hành vi ứng xử của nhà nước này đối
với bên trong và bên ngoài xoay trên những thao tác phù hợp với vị thế
cô lập: dân vận, xin xỏ, tranh thủ và lôi kéo. Như vậy lề lối ngoại giao
ra đời từ sự bế tắc của nền độc tài bạo ngược. Tiếng nói của Bộ ngoại
giao đến nơi xa nhất cũng bị gọi giật trở lại bởi chỉ đạo từ nhà ém
trước ở đó bật lên phản thùng. Nói đến những bước tiến của ngoại giao ư?
Bộ ngoại giao như con giáp xác không đầu vận động loằng ngoằng, giẫy
giụa trong những xúc tu thò ra, cuốn giật trở lại của mình.
Làm thế nào để ngoại giao thật sự là một môi trường mở? Mở một trang
Bộ ngoại giao, tôi đọc thấy phần viết về nhiệm vụ của Bộ: „Thu thập
thông tin, nghiên cứu phân tích, tổng hợp tình hình các đảng cộng sản và
công nhân, các lực lượng cánh tả, các phong trào độc lập và giải phóng
dân tộc, các lực lượng cách mạng và tiến bộ, các chính đảng và đảng cầm
quyền trên thế giới; dự báo tình hình quốc tế, đề xuất kịp thời những
đối sách của Đảng ta“. Nếu nhiệm vụ ngoại giao được hoạch định như vậy,
tôi có cảm giác các nhà ngoại giao Việt Nam đang chăm chú xây dựng quan
hệ chủ yếu với những người rơm và sự nghiệp giải vây cho Việt Nam vẫn
còn ở xa phía trước.
© P.K.Đ
Bài đã đăng trên Bauxite VN
Chú thích của tác giả:
(1) „ Die öffentliche Meinung ist, wie die Religion, das stärkste
Machtmittel, das selbst in den verborgensten Winkel dringt, wo
Regierungsanweisungen jeden Einfluss verlieren“ - Klemens Wenzel Lothar
von Metternich (1773-1859): Bá tước Metternich, chính khách, nhà ngoại
giao người Áo đóng góp lớn vào sự cân bằng các thế lực và thiết lập trật
tự mới của châu Âu trên Đại hội Viena 1813, sau khi lật đổ Napoléon
Bonaparte.