Sau thắng cuộc 1975, Việt Nam nổi tiếng trên thế giới là dân tộc anh
hùng, một dân tộc kiên cường gan góc chống giặc ngoại xâm, một dân tộc
có lòng yêu nước nồng nàn, đã mấy nghìn năm không bao giờ chịu khuất
phục trước mọi thế lực ngoại bang xâm lược, thôn tính.
Thế nhưng, hiện nay cả dân tộc đang đặt trước nhiều nỗi sợ, thậm chí
bạn bè quốc tế còn đánh giá là hèn kém. Trước hết, người dân cả nước đã
thấm đậm hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, nay rất yêu
chuộng hòa bình, và dĩ nhiên sợ chiến tranh. Chiến tranh đối với dân
tộc Việt Nam là nỗi đau, dày đắp hy sinh xương máu hết đời này sang đời
khác. Nay tuy đã 24 năm lặng tiếng súng kể từ sau hải chiến Trường Sa
(1988), nhưng đất nước vẫn chưa có hòa bình. Nguy cơ chiến tranh vẫn
rình rập cận kề. Rõ nhất là những ẩn chứa tiềm tàng những nguy cơ bùng
phát chiến tranh biển-đảo, biên giới. Vì thế, nối sợ chiến tranh, nỗi sợ
mất đi cuộc sống hòa bình cứ thường trực ngày đêm, canh cánh không yên
lòng dân Việt.
Đó là nỗi sợ lớn nhất.
Về giới lãnh đạo, đảng cầm quyền đang rất sợ Đảng Cộng sản bị tiêu
vong, và đã rõ những nguy cơ tiêu vong cận kề. Nguy cơ này, gần đây đã
liên tục được báo động trong các nghị quyết, các hội nghị của Đảng. Đảng
càng sợ mất Đảng, lại càng ra sức cảnh giác, đề phòng với những gì bị
coi là nguy cơ làm mất đi vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, từ Ủy viên
Bộ Chính trị, các Ủy viên Trung ương, đến đảng viên thường đều sợ mất
Đảng, nhiều người đã tin là khó giữ được sự “tồn”, mà hiện trạng thế này
rồi thì tình huống “vong” của Đảng xảy ra bất cứ lúc nào. Một đảng mà
"một bộ phận không nhỏ lãnh đạo có chức có quyền suy thoái, biến chất"
thì còn đâu sức sống? Tồn tại càng lâu thì tác hại đến xã hội càng lớn,
chưa nói đến sức chiến đấu, vai trò lãnh đạo xã hội!
Suy cho cùng, nhất là sau Hội nghị Thành Đô 1990, Đảng ta cứ liên tục
đưa ra, có khi hô toáng lên nào là “diễn biến hòa bình”, nào là “thế
lực thù địch”, nào là “ý chí phục thù bên thua cuộc”, nào là mầm mống
phản động”, nào là phong trào dân chủ tự phát, đòi “đa nguyên đa
đảng”…Nghĩa là, Đảng ta không yên tâm, toàn ý cầm quyền, mà lúc nào cũng
sợ kẻ nào đó giật mất quyền của mình. Nhưng, gần đây, những tiếng nói
trung thực đã ít bị ruồng ép, khó bịt mồm, không dễ ngăn chặn, buộc phải
công nhận. Đó là những đánh giá, nhận định, kết luận: Không ai phá,
không có ‘diễn biến hòa bình”, “thế lực thù địch” nào khác, mà nguyên
nhân chính là Đảng ta đã tự pha sbanh chính mình, từ trong nội bộ đã “tự
diễn biến”, nghĩa là người cộng sản tự đào hố chôn mình! Phân tích cho
rõ: “Diễn biến hòa bình” là sự mắc mưu Trung Quốc, họ muốn độc tôn với
Việt Nam, muốn chính phục, chi phối Việt Nam từ chính trị đến đối ngoại,
từ kinh tế đến van hóa-xã hội. Nghĩa là sự thôn tính thông qua cái gọi
là “trỗi dậy hòa bình”, là thủ đoạn thâm độc của “xâm lược mềm”, chinh
phục, thôn tính không cần chiến tranh.
Vì thế, cái đích cần đạt tới của Trung Quốc trong chiêu bài ‘diễn
biến hòa bình” là Việt Nam không được (tùy tiện) hòa hợp dân tộc, phải
ghi hận thù với Mỹ và các nước phương Tây, cấm được “Âu hóa”, phương
Đông ta chỉ nên tin và ‘chơi’ với phương Đông thôi; rằng tư bản là xấu,
phương Tây là xấu và ác, chỉ có Trung Quốc là tin cậy, phải dựa vào
Trung Quốc, phải nghe lời Trung Quốc, khi “ông anh” nói gì đều phải
nghe…Rằng: Việt Nam phải hết sức cảnh giác, Mỹ, phương tây, cả Nga và
các nước Đông Âu cũng không tốt, họ đang “diễn biến hòa bình” thâm độc,
nguy hiểm, phải luôn luôn cảnh giác với họ. Nhất là số Việt kiểu ở Mỹ,
thế lực hải ngoại thua cuộc từ 1975 đang rắp tâm đấy, Việt Nam cần cảnh
giác…
Đó là nỗi sợ mà Đảng ta đã gói chặt ôm về “gối đầu giường” từ sau Hội
nghị Thành Đô, như một thứ bùa mê thuốc lú đã ngấm sâu vào thần kinh và
nội tạng. Rồi sau đó lại sang tàu “ẵm về” 16 chữ vàng, 4 tốt, để mê
muội, lú lẩn thêm, để bám Trung Quốc chặt hơn, chẳng khác nào Bạch Cốt
Tinh hóa cô nằng xinh đẹp hút hồn thấy trò Đường Tăng vậy. Như thế, các
vị, các cấp lãnh đạo và hơn 3,6 triệu đảng viên phải biết sợ chính mình
trước khi sợ mất Đảng!
Đối với người dân: Nỗi sợ thường trực, do sự chuyển hóa rất siêu nghệ
của “chuyên chính vô sản”, từ chỗ (theo lý luận cách mạng Mác-xít) là
chuyên chính với kẻ thù, dân chủ với nhân dân, bỗng quay sang “chuyên
chính với nhân dân”, chuyên chính vơi sngay nền dân chủ mà Đảng vẫn tự
khoe là “ưu việt”, là “dân chủ gấp vạn lần dân chủ tư sản”…Đã có quyền
trong tay, thế lực đầy mình, lực lượng bảo vệ Đảngngày càng đông đảo,
được chính quy hóa, nhất là công an, thanh bảo kiếm trung thành bảo vệ
Đảng, ai mà không ngán? Dù bài hát ca ngợi chiến sĩ công an có đủ bộ 3:
“Vì an ninh Tổ quốc ta đi / được mang danh thanh bảo kiếm trung thành /
bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ tươi đẹp…”. Nhưng rồi lãnh
đạo, chỉ huy, huấn luyện, giáo dục lực lượng công an rất tài. Chỉ thấy
bảo vệ Đảng, không thấy bảo vệ nhân dân, và cũng qua đó mất đi ý nghĩa
“chế độ tươi đẹp”. Chế độ cho ai, ai được hưởng, khi người dân thấy
bóng, hoặc mới nghe nói đến công an là mỗi người đều có “phản xạ thường
trực” phải cảnh giác, được yên thân là hơn hết?
Một xã hội thời văn minh, hiện đại, thời toàn cầu hóa mà như bị co
lại trong vỏ ốc, nhiều biểu hiện lạc hậu hơn cả thời phong kiến: Lãnh
đạo sợ giặc thù, sợ "mất ổn định"; sợ không qua "nhiệm kỳ"; người dân sợ
chính quyền, công an, sợ kẻ cướp, sợ côn đồ, xã hộ đen. Xem ra, từ lãnh
đạo đến người dân, sợ quá hóa yếu, sinh hèn, bất cần, nhu nhược, không
còn đâu chí khí, bản lĩnh, truyền thống Việt. Và do vậy, khối đại đoàn
kết dân tộc bị vữa ra, tan loãng vô hiệu hóa. Đó là nguy cơ mất nước!
Trong kháng chiến, Đảng kêu gọi lòng yêu nước, thi đua yêu nước, toàn
dân đánh giặc, nuôi chí anh hùng; nhưng trong hòa bình, Đảng lại xem
nhẹ, coi thường lòng yêu nước, làm nhụt chí anh hùng, xóa nhòa niềm tự
hào dân tộc. Mọi nỗ lực dân chủ đều bị khoanh hẹp, thậm chí triệt tiêu,
quyền lực của dân bị chặt hết, đồng tiền có quyền lực tối cao, chức
quyền ra sức thống trị; cả bộ máy quyền hành trở thành nỗi ngán ngại, sợ
sệt đối với người dân. Trong kháng chiến, cán bộ được người dân hy sinh
cả tính mạng, của cải để bảo vệ; nhưng hòa bình rồi thì đảng không bảo
vệ dân, còn ức hiếp dân, thậm chí nặng về quan liêu, mệnh lênh: "bảo cái
gì dân cũng phải nghe". Nếu sợ nguy cơ tồn vong của Đảng, của chế độ
cần nhận diện và thấu suốt thực trạng đáng lo ngại ấy!
Người dân trong một nước được mang danh rất kêu là “nhà nước dân chủ,
của dân, do dân, vì dân”, một nước đã “tự do, độc lập” mà người dân
không được hưởng quyền lợi gì, đụng đến một chút gì làm chính quyền phật
ý là bị ghi sổ đen, bị theo dõi, bị bắt giam, bị quy chụp thành tội rồi
tống giam, bất cần công ký, bỏ qua mọi thứ pháp luật.
Dân chủ ở đâu, khi nghe đài, đọc báo, mở mạng Internet, thậm chí cả
khi chuyện vui, chuyện phiếm bàn trà, quán nhậu, bất kỳ nơi đâu đều bị
theo dõi, bị cấm đoán, bị “quy vào” hết chuyện này đến tội danh tội
trạng khác? Nói cái gì cũng phải nhìn trước ngó sau, tự biết canh chừng,
sợ “ếch chết vì ộp ộp” thì đó là quyền gì? Nỗi sợ thường trực ngày đêm
của mọi công dân, kể cả trí thức, nhà báo, đảng viên đến mức mất hẳn
quyền con người, ăn không ngon, ngủ không yên là do ai gây nên? Do quan
điểm của Đảng bị đánh tráo, tư tưởng bị lợi dụng, bẻ cong?
Lại nữa, dù rất phi lý: Nhà báo sợ viết sự thật, người nghèo sợ kẻ
sẵn tiền, chính quyền sợ đại gia, người già sợ con nít, người dân sợ
công an, công an sợ côn đồ, dân lành sợ lưu manh, làm ăn sợ đánh thuế,
mua hàng sợ hàng gian hàng giả, ăn uống sợ độc hại, sợ mắc bệnh ung thư.
Rồi nữa: Đảng viên sợ 19 điều cấm; đi bộ đội sợ hy sinh không được công
nhận liệt sĩ, mộ chí không ai thắp hương đặt hoa tưởng niệm; người lao
động sợ mất việc, học nghề sợ thất nghiệp, ra chợ sợ giá cả, ốm đau sợ
không đủ tiền mua thuốc.
Những cái tưởng như “chuyện vặt” sinh hoạt thường ngày mà cũng khiến
người ta sợ đến phát điên: Có của sợ mất cắp, ra đường sợ tai nạn, sợ
đóng phí này kia, sợ không phải “xe chính chủ”, đi học sợ đóng tiền,
không biết lót tay thầy thì ở lại lớp, đi viện sợ bác sĩ bỏ chết, xác
chết sợ cấm đoán không cho con cháu nhìn mặt… Cứ như thế, nỗi sợ này kéo
theo, dính chùm cùng nhiều nỗi sợ ập đến, mọi nỗi sợ nối tiếp nhau như
những con cờ đô-mi-nô. Vậy thì tất cả do chế độ chính trị, do đường lối,
chính sách, cách thức quản lý, điều hành nào gây nên?...? Dấu chân Việt
Nam chẳng lẽ (vì thế) nhạt nhòa dần: ... Tình chưa yên vui, bên sóng
đời cuồng nộ / Chợt đêm chia phôi, ngăn cách một đại dương / Từng dài âu
lo, từng quen đợi chờ. / Mộng thật cam go / Miễn là mai niềm đau thành
nụ cười (Trầm Tử Thiêng). Tình người, tình đời, sao cứ làm cho nhau sợ,…
"Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau" (Trịnh Công Sơn).
Ôi, một xã hội mà từ vị lãnh đạo, từ ‘vua” đến dân, ai cũng canh cánh
nỗi sợ, thì sao có thể gọi là tốt đẹp, là "ưu việt"? Làm sao mà phát
triển được đất nước sánh vai với các nước? Cho nên, với hiện trạng này,
câu kết trong các Nghị quyết Đại hội Đảng mà nhiệm kỳ nào cũng 'bổ cũ
soạn lai' đọc đến phát ngán: “Phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” nay đã chứng minh chỉ là khẩu hiệu cửa miệng
nhàm chán, vô nghĩa mà thôi.
BVB