Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

Hiện tượng Hugo Chavez và bài học cho Việt Nam (2)

Nguyễn Văn Thạnh

Hugo cho ta thấy thể nào là một nền dân chủ trọn vẹn: Trên website bộ ngoại giao Hoa Kỳ trong phần định nghĩa về dân chủ có liệt kê Venezuela là một nước dân chủ. Nhiều người lâu nay cho rằng dân chủ là phải đa đảng, phải có bầu cử tự do, có báo chí tư nhân,… Tuy nhiên điều đó vẫn chưa làm nên nền dân chủ trọn vẹn. Nền dân chủ chỉ trọn vẹn khi các điều trên kết hợp với nền kinh tế tư nhân. Chính nền kinh tế tư nhân là cái gốc của nền dân chủ. Các nước như Ấn Độ (trước cải cách kinh tế) hay Nga dù có được bầu cử tự do nhưng nền dân chủ không trọn vẹn do nhà nước chi phối nền kinh tế (kinh tế nhà nước có tỷ lệ cao) nên vẫn không giàu có, thịnh vượng.
hugo.jpg
Hugo cho ta bài học là làm thế nào một nền độc tài chuyên chế có thể nảy nở trên nền xã hội dân chủ? Đó là con đường chính phủ thâu tóm kinh tế thông qua chính sách quốc hữu hóa, can thiệp giá cả. Bài học này đã được Hitler sử dụng để thâu tóm quyền lực nước Đức, biến nước Đức thành một đế chế chuyên chế Phát xít đáng sợ dù Hitler là chính trị gia lên nắm quyền qua bầu cử dân chủ và khi đó nước Đức có bản hiến pháp rất dân chủ. Bài học cho ta thấy là một bản hiến pháp đẹp chưa có gì để bảo đảm cho nền dân chủ cả; khi nắm quyền chuyên chế thì người ta có thể tảng lờ, bóp méo hoặc sửa lại hiến pháp. Cuối cùng vẫn là kinh tế tự do mới là nền tảng của dân chủ.
Trong một nền dân chủ, để tránh giới chính trị thâu tóm quyền lực, nảy nở độc tài thì người dân phải chặn sự thâu tóm kinh tế. Sự thâu tóm bắt đầu bằng hành động can thiệp giá cả, quốc hữu hóa, tăng đầu tư công, thành lập doanh nghiệp nhà nước, tăng trợ cấp.
Hugo cũng cho ta thấy rằng kinh tế và chính trị như hai đường ray nâng đỡ con tàu xã hội, nó phải luôn đi đôi với nhau. Nếu kinh tế tự do (tư nhân) thì đi với đường ray chính trị dân chủ pháp quyền. Kinh tế nhà nước thì tất yếu đi với đường ray chính trị mất dân chủ, chuyên quyền. Đây là qui luật tất yếu, nếu ta thay một trong hai thanh ray thì thanh kia tất yếu phải đến để hệ thống có thể hoạt động được.
Hiện tượng phát sinh độc tài trong một đất nước có nền dân chủ vững chắc, có hiến pháp đa nguyên, có nhiều đảng phái hoạt động, có bầu cử tự do,… cho ta nhiều bài học sâu sắc cần rút ra cho đất nước. Bài học ta có thể rút ra ở đây là với quyền lực chính trị được giao, nếu để chính quyền thâu tóm nền kinh tế thì sẽ tạo nên siêu quyền lực và tạo nên mầm mống của độc tài. Tôi không biết lý do vì sao những người lập pháp, những nhà chính trị điều hành đất nước lại giao quá nhiều quyền lực vào tay thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến vậy. Ông vừa là người hành pháp, vừa là người nắm hàng ngàn công ty xí nghiệp nhà nước, nắm các mặt hàng thiết yếu của cả xã hội như điện, nước, xăng, dầu, viễn thông, ngân hàng,… Ông vừa có quyền ký phong tướng tá cho các bộ quyền lực như công an, quân đội; vừa có quyền ban phát bổng lộc cho thuộc cấp thông qua các công ty quốc doanh. Chính điều này đã tạo nên một thủ tướng siêu quyền lực chưa từng thấy ở Việt Nam.
Hugo cho ta thấy một vấn đề của thời đại chúng ta, thời đại của chính trị phổ thông đầu phiếu. Quyền lực chính trị và ý chí người dân được xây dựng qua những phiếu bầu, đây là hình thức dân chủ trong sinh hoạt chính trị mà con người phải tốn nhiều công sức, xương máu mới có được. Nhiều người cho rằng đây là hình thức tối ưu để biết ý nguyện người dân và cuối cùng đưa đến quốc thái dân an, thịnh vượng. Tuy nhiên nếu phân tích kỹ và quan sát từ Venezuela ta thấy cơ chế này có một điểm yếu chết người. Trong việc phổ thông đầu phiếu thì lá phiếu của một gã ăn mày có quyền lực như nhau với một lá phiếu của một chuyên gia. Đây là một việc nguy hiểm, vì như nhà bác học thiên tài Einstein đã nói “không thể chống lại được thế lực của kẻ ngu, vì chúng quá đông”. Chúng ta tin tưởng vào sự sáng suốt của số đông. Tuy nhiên trong một xã hội, người u tối, thiếu hiểu biết luôn nhiều hơn người hiểu biết và điều đặc biệt là trong đám đông nghèo khó thì họ sẽ ủng hộ bất cứ chính trị gia nào hứa cải thiện cuộc sống cho họ dù cải thiện bằng con đường nào thì họ ít quan tâm hay không hiểu qui luật kinh tế thị trường. Vấn nạn này đang xảy ra khắp nơi, ở cả các xứ dân chủ cao như Mỹ, Pháp hay Thái Lan. Nhiều cư tri Pháp, Mỹ đã bầu cho tổng thống vì ông hứa tăng trợ cấp phúc lợi xã hội, tăng chi tiêu công, làm cho chỉ số thất nghiệp, tăng trưởng đẹp. Nhiều nông dân Thái đã bỏ phiếu để bầu cho bà thủ tưởng trẻ Yingluck Shinawatra vì lời hứa tăng giá gạo 20% từ tiền ngân sách,… ít ai biết rằng chính phủ chỉ có thể lấy tiền ngân sách hoặc vay mượn để thỏa mãn các đòi hỏi đó của cử tri và sớm muộn gì nợ công và sụp đổ kinh tế là điều tất yếu. Tôi cho rằng đây là một vấn nạn của thời đại, nếu con người không tìm ra giải pháp cho vấn đề này thì khủng hoảng kinh tế vì nợ công, lạm phát và vấn nạn chính mị dân sẽ tàn phá sự ổn định, thịnh vượng của nhân loại. Đặc biệt nếu kinh tế sụp đổ trên diện rộng thì sẽ xuất hiện chuyên chế độc tài như cuộc đại khủng hoảng 1930 (vì khi khủng hoảng, xã hội có xu hướng ủng hộ quyền lực, ủng hộ sự kiểm soát kinh tế của nhà nước để mau chóng vãn hồi trật tự như những bài học khủng hoảng trước).
Chúng ta thấy rằng trong nền chính trị hiện đại việc hạn chế quyền bầu cử là không thể được. Do vậy chỉ còn cách là phải nâng cao hiểu biết của dân chúng, đặc biệt là kiến thức về kinh tế. Dân chúng rất ít người hiểu biết thấu đáo về tự do kinh tế, về kinh tế thị trường, về giá cả và lợi nhuận. Công chúng có xu hướng bài xích lợi nhuận, dìm giá hàng hóa. Ủng hộ chính phủ can thiệp vào thị trường, nhất là vấn đề giá cả, ủng hộ không giới hạn lý tưởng nhà nước phúc lợi, ủng hộ đầu tư, chi tiêu công. Đây rõ ràng là những nguy cơ dẫn đến thâu tóm kinh tế của quyền lực chính trị. Một khi kinh tế bị thâu tóm thì tự do sẽ bị cầm tù. Tự do kinh tế là mạch máu của các loại tự do.
Nếu ai đã nghiên cứu về cuộc đời và tư tưởng của Hayek, đều biết rằng ông là một chiến sĩ đấu tranh âm thầm để bảo vệ nền tự do đích thực. Ông đã cứu nền văn minh châu Âu không bị lạc lối vào chuyên chế. Ông đã viết cuốn “Đường về Nô Lệ”, một cuốn sách có tiếng vang lớn ở Mỹ và châu Âu để cảnh báo nạn thâu tóm kinh tế của nhà nước. Ông đã thành lập hội Mont Pelerin ở châu Âu, giúp thành lập một câu lạc bộ tự do kinh tế ở Anh, giao lưu với trường phái kinh tế tự do ở Mỹ. Chính tư tưởng của ông đã tạo nền tảng hiểu biết về tự do kinh tế cho phương Tây và giúp họ thay đổi đường lối kinh tế bao cấp sau thế chiến 2. Hai chính trị gia huyền thoại là bà đầm thép Margaret Thatcher - thủ tướng nước Anh - đã bẻ lái con tàu kinh tế nước Anh để đoạn tuyệt với chủ nghĩa xã hội Fabian, và tổng thống nước Mỹ Ronald Reagan đã tìm lại nền kinh tế tự do đích thực cho nước Mỹ cũng là nhờ hấp thu tư tưởng của Hayek. Hayek có vai trò lớn đến mức nhiều người cho rằng thế kỷ 20 là thế kỷ của ông. (Tham khảo sách Friedrich Hayek - Cuộc đời và sự nghiệp)
Việt Nam chúng ta học được gì từ vấn đề này? Rõ ràng tư tưởng là nền tảng của xã hội, tư tưởng đúng thì xã hội phát triển, tư tưởng sai thì xã hội lẩn quẩn, bế tắc. Để có thể kiến tạo nền dân chủ vững chắc, chúng ta cần có nền kinh tế tự do. Để có nền kinh tế tự do thì dân chúng phải hiểu biết rõ về nó. Nếu chúng ta chỉ đấu tranh để hướng đến tự do chính trị thôi thì không đủ (Ấn Độ có trên 50 năm chính trị tự do, nhưng nền kinh tế theo chủ thuyết xã hội Fabian nên bế tắc, lẩn quẩn). Tôi rất lo lắng khi biết rất nhiều nhà đấu tranh dân chủ lại cổ xúy cho mô hình doanh nghiệp nhà nước, vì họ cho rằng nó phụng sự xã hội mà không có lòng tham lợi nhuận để bóc lột, vấn đề là cần quan chức có tâm, có đạo đức tốt điều hành. Hay khi hỏi 100 người dân thì có đến quá nửa nghĩ xấu về doanh nghiệp tư nhân và có thiện cảm với doanh nghiệp nhà nước. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta thành lập một viện tự do kinh tế (qui mô học thuật) để truyền bá hiểu biết về kinh tế thị trường, về hệ thống giá, về lợi nhuận, cung cầu, về quản lý nhà nước trong nền kinh tế tự do,… Tôi cho rằng đây là vấn đề khai trí vững chắc như Fukuzawa Yukichi đã làm với nước Nhật. Suy cho cùng một đất nước chỉ giàu khi kinh tế mạnh. Kinh tế đúng thì mọi điều còn lại phải đúng theo. Tất cả mọi thiết chế quyền lực chính trị cũng nhằm mục đích là để việc làm ăn thuận lợị.
Hugo Chavez cho ta bài học về vấn đề liên minh quốc tế. Khi ông thực hiện các biện pháp kinh tế phi thị trường như quốc hữu hóa, kiểm soát giá cả,… làm cho các nước có nền kinh tế tự do như Mỹ, Châu Âu, Nhật,… không thể làm ăn và cũng không thể làm bạn được. Tất yếu Venezuale phải làm bạn với các nước có nền kinh tế phi thị trường và nền chính trị mất dân chủ như: Triều Tiên, Cuba, Libi (thời Gaddaffi), Iran, Trung Quốc,… Trong cuộc sống, con người kết bạn với nhau cũng là nhằm để làm ăn tốt hơn, trên thế giới các quốc gia liên minh với nhau cũng vì quyền lợi. Khi lợi ích khác nhau, không hợp tác được thì hết là bạn của nhau. Đây cũng là lý do vì sao các nước có nền chính trị phi dân chủ, nền kinh tế phi thị trường thường là đồng minh của nhau. Ngoài ra để có sự ủng hộ của dân chúng, lãnh đạo những nước này thường lên gân chống Mỹ nhất, họ khai thác những cái gì xấu xa từ xã hội Mỹ, từ nền kinh tế tự do để cho rằng đường mình đi là văn minh, là hiện đại, là tất yếu của nhân loại. Mặt khác để lời lên án có tính tuyên truyền cao, họ ra sức bưng bít thông tin, cấm đoán mạng internet. Đây cũng là bài học cho Việt Nam, nếu chúng ta không tăng cường cải cách kinh tế tự do, chính trị dân chủ thì chúng ta sẽ đứng trong nhóm bạn có thuộc tính còn lại của thế giới và đói nghèo là tất yếu.
Sức mạnh của Hugo Chavez dựa trên nguồn dầu dồi dào của đất nước, bằng cách bán dầu giá rẻ hay viện trợ cho các nước nghèo, chính quyền chuyên chế như Cuba, ông đã chinh phục được họ, ông nhận được từ họ sự tung hô (Rõ ràng anh có tiền, anh ban phát kinh tế thì anh chinh phục được khối người). Và ông là một bài học cho thực trạng vung vãi lợi ích quốc gia để mua đồng minh ở các nhà lãnh đạo, điều này rất dễ xảy ra nếu quyền lực không được kiểm soát hoặc lãnh tụ thâu tóm cả hai quyền lực chính trị và kinh tế. Khi quốc dân không kiểm soát được quyền lực nguyên thủ thì họ hoàn toàn có thể vung vít quyền lợi đất nước để mua chuột đồng minh. Việc này giải thích tại sao các vị tổng bí thư nước ta có thể mang vài ngàn tấn gạo cho tặng đồng minh mà không cần sự biểu quyết của quốc hội, trong khi bao con em chúng ta còn phải bẫy chuột để ăn vì đói. Đồng bào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An còn nạn đói hoàng hành.
Hugo để lại cho ta bài học về vai trò đích thực của người lãnh đạo. Người lãnh đạo muốn đi vào hàng vĩ nhân của dân tộc như Washington phải là người kiến tạo ra xã hội vận hành trên những nguyên lý đúng. Dù chưa hoàn hảo nhưng nó vẫn vận hành tốt khi họ chết để hướng đến xã hội văn minh chứ không phải là người dùng uy tín, ảnh hưởng, đạo đức của mình để vận hành xã hội, để rồi khi mình chết đi để lại một xã hội bợ rạc, lộn xộn và mất phương hướng. Một nhà lãnh đạo giỏi là phải thiết lập được một thiết chế dân chủ bền vững để quốc gia vẫn phát triển ngay cả khi mình qua đời chứ không phải là sự tung hô đương thời.
Đám đông, nhân dân có thể bị lừa dối, bị làm mờ mắt trong các lợi lộc trước mắt. Tuy nhiên theo thời gian, chỉ có lãnh đạo nào đem lại sự thịnh vượng, sự phát triển đích thực cho dân tộc mới được ngưỡng mộ, kính trọng. Các chiêu thức tuyên truyền, các hình thức “công bằng” màu mè rồi cũng đi vào sọt rác của lịch sử. Một đất nước không bao giờ có phúc nếu chỉ có ngày càng “công bằng” trong nghèo khó hơn và dân chủ mất dần.
Làm chính trị không chỉ lòng nhiệt tình, trái tim quả cảm, yêu thương người nghèo. Điều đó là chưa đủ, nó còn đòi hỏi sự hiểu biết thấu đáo vấn đề như một nhà khoa học. Như nhà khoa học phải hiểu các thuộc tính của vật chất, nhà chính trị phải hiểu xã hội, phải biết các thuộc tính của con người; phải hiểu kinh tế thị trường và các thuộc tính của nó. Nếu thiếu hiểu biết hai lĩnh vực trên mà nhiệt tình thì cuối cùng chỉ có phá hoại.
Hiện nay người có lòng nhiệt tình ái quốc và có hiểu biết căn bản các qui luật của xã hội, của nền kinh tế không phải là nhiều. Một người trong số đó là doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, anh đã cảnh báo khủng hoảng kinh tế cách đây 5-6 năm khi mà xã hội đang thời kỳ hoàng kim. Anh không phải cảnh báo mò mẫn, các bài viết của anh có tính logic của qui luật dẫn đến sự tất yếu. Đáng tiếc là đất nước ta không sử dụng được người tài như anh. Nghiệt ngã hơn nữa là anh và bạn hữu (anh Long, anh Định) phải ngoài tù vì những cảnh báo của mình. Để có thể dẫn dắt xã hội tiến lên, chúng ta rất cần những người am hiểu xã hội, am hiểu kinh tế, do vậy việc vận động, kêu gọi trả tự do cho anh Thức lúc này là rất quan trọng.
Hugo Chavez để lại cho ta một bài học để trả lời câu hỏi “thế nào là một nền chính trị thực, thế nào là một nền chính trị mị dân”. Chính trị thực tuy nó không đẹp, không lý tưởng bằng chính trị mị dân nhưng nó mang lại điều tốt đẹp cho quốc dân trong tương lai, nó hướng đến công bằng, dân chủ gần với hiện thực cuộc sống. Chính trị mị dân rất đẹp, làm say lòng người vì lý tưởng, vì lời hứa nhưng về lâu dài nó lại hại nước, hại dân.
Trong nền chính trị mị dân, chính trị gia hay dùng truyền thông nhấn mạnh thành tích ngắn hạn để đánh bóng tên tuổi, chạy theo bề nổi hơn là thực chất. Và trong nền chính trị mị dân, chính trị gia hay hướng đến bênh vực đối tượng nghèo khó bất chất qui luật kinh tế để dành sự ủng hộ cử tri (vì số này đông) hơn là có giải pháp thấu đáo cho cả xã hội. (Thái Lan là một bài học khi nước này mất hàng tỷ đôla trợ giá gạo cho nông dân, làm rối loạn nền sản xuất lúa gạo trong tương lai).
Venezuela cho ta bài học đáng suy ngầm về sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đô thị và nông thôn
Venezuela là một quốc gia có sự mất cân bằng nghiêm trọng giữa thành thị và nông thôn. Với sự đầu tư của chính phủ tập trung vào các đô thị, làm nơi đây phát triển, có công ăn việc làm nên đã thu hút dân nông thôn đồ về đô thị. Đô thị có hạ tầng dịch vụ về giáo dục, y tế, đường xá tốt hơn hẳn nông thôn nên có mức sống cao hơn, ai cũng muốn về đây để sống. Với nguồn tiền do chính phủ chi thì những quan chức ở gần thủ đô tạo mối quan hệ tốt hơn nên được đầu tư nhiều hơn. Và nguồn tiền đầu tư từ chính phủ thì ít tính đến yếu tố thu hồi vốn, do vậy nó được chi ở nơi có khả năng lên dự án hợp lòng lãnh đạo nhất, bất chất chi phí là bao nhiêu và hiệu quả kinh tế như thế nào. Ngoài Venezuela, ở các nước có sự chi phối đầu tư từ tiền chính phủ đều có sự mất căn bằng giống như vậy, điển hình là Trung Quốc, Việt Nam,…Đặc biệt một quốc gia nghèo như Triều Tiên có cũng thủ đô Bình Nhưỡng với nhà cao tầng, công viên, tàu điện ngầm,… rất hiện đại nhưng phần còn lại của đất nước gần như không có gì.
Hàng ngày, thấy hàng triệu người ở hai thành lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vật vã giữa lòng đường trong giờ cao điểm để nhích từng xí một, nhiều em nhỏ vẻ mặt bơ phờ mệt mỏi trong cái nắng, cái bụi hoặc trong cơn mưa, tôi tự nghĩ, tại sao cuộc sống con người nơi đây khổ thế? Tại sao họ lại bám vào cái thành phố để sống trong cảnh khổ thế này? Và tôi biết họ phải bám vào nơi đây để sống vì về quê không có việc gì để làm. Mặc khác ở TP thì được nhà nước đầu tư những công trình phúc lợi như bệnh viện, công viên, trường học,… tốt hơn nông thôn nên khi đau yếu, học hành cũng tiện lợi hơn, do vậy dân thích sống ở đây hơn. Tắc đường buộc chính phủ phải đầu tư nhiều tiền để mở đường, để xây cầu. Một lượng tiền rất lớn đổ vào công trình hạ tầng, có những đoạn đường dài chỉ gần 1 km tiêu tốn gần ngàn tỷ đồng. Chính điều này làm cho cạn kiệt nguồn vốn đầu tư nơi khác, mặc kháclàm cho Hà Nội có công ăn việc làm thu hút dân tỉnh lẻ lên. Chưa nói là nhiều công trình chưa cần thiết nhưng do gần trung ương nên dễ dàng được duyệt, như câu chuyện sửa sang vỉa hè (vỉa hè thành phố thì nay sửa, mai thay mới trong khi một cây cầu cho con em ở vùng xa thì không xây). Dân bị hút lên thành phố để sống, để tìm việc làm lại gây tắt đường, nhà nước lại phải đầu tư. Cái vòng tròn lẩn quẩn này làm cho các đô thị lớn phình ra và chật cứng, trong khi các nơi khác thì không có cơ sở làm ăn, nguồn tiền không có để đầu tư và lợi thế kinh tế nhờ số đông không thể hình thành ở nông thôn. Rõ ràng nếu tư bản di chuyển tự do trong tay tư nhân thì sẽ không đầu tư một lượng tiền lớn vào những nơi như vậy, dòng tiền sẽ phân tán, đi về những nơi có khả năng tạo ra lợi nhuận cao hơn.
Đồng ý rằng, nước nào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đều xảy ra quá trình đô thị hóa, bị nạn mất cân bằng giữa đô thị và nông thôn. Tuy nhiên để đến mức quá lớn như ở nước ta còn có nguyên nhân là dòng tiền do nhà nước kiểm soát. Nhà nước đã điều một dòng tiền cực lớn trong xã hội bất chấp hiệu quả đồng vốn và kéo theo nhiều hệ quả.
Quyền lực chính trị tác động đến kinh tế làm cho nó hoạt động bất chấp qui luật thị trường sẽ tạo ra nhiều hệ quả to lớn cho xã hội. Khi xưa quyền lực chính trị kết hợp với tem phiếu (kinh tế bao cấp) đã đẩy hàng triệu người dân phải rời bỏ thành phố để đi đến nông thôn, vùng sâu, vùng sa theo chương trình kinh tế mới (nếu không đi thì nhà nước không cấp phiếu gạo, đói thì phải đi), hoặc bất chấp sóng dữ để vượt biên. Ngày nay quyền lực chính trị kết hợp với nguồn tiền ngân sách nhà nước đã làm cho các đô thị phình to trong chật chội, tắt đường kinh niên; trong khi nông thôn thì xác xơ.
Rõ ràng trong nền kinh tế XHCN với đặc điểm là sự đầu tư lớn từ nhà nước và một tỷ trọng lớn doanh nghiệp quốc doanh không chỉ gây ra hậu họa “lợi ích nhóm”, tham nhũng, bè phái, chính trị mất dân chủ mà còn là nguyên nhân gây ra sự mất căn bằng nghiêm trọng giữa đô thị và nông thôn. Điều này là mệt mỏi cho tất cả chúng ta.
Kết thúc:
Tôi viết bài này một phần để tưởng nhớ đến ông Hugo Chavez như một con người giàu nhiệt huyết muốn đất nước Venezuela công bằng và giàu có nhưng ông đã thất bại và để lại di sản nặng nề cho đất nước là kinh tế yếu kém, tệ tham nhũng và lợi ích nhóm khổng lồ thao túng quốc gia; và đồng thời cũng là lời nhắn gửi đến tất cả những người lãnh đạo là hãy hiểu cuộc sống, hãy hiểu kinh tế để có thể mang lại điều tốt đẹp cho nhân dân, cho đất nước, lòng nhiệt huyết không là chưa đủ.
Và lời cuối cùng tôi muốn nhắn gửi đến tất cả chúng ta là “kinh tế tự do là cái nền cho mọi sự tốt đẹp, kinh tế nhà nước là cái gốc mọi sự tồi bại trong xã hội”.

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"