Birgit Grundmann
VN2006A chuyển ngữ, Mai Lê hiệu đính
VN2006A chuyển ngữ, Mai Lê hiệu đính
Bài phát biểu "Tính bền vững của bộ Luật Cơ Bản trước những thay đổi của thời cuộc" của Thứ trưởng Bộ Tư Pháp, tiến sỹ Birgit Grundmann, tại trung tâm Pháp Luật Đức trường đại học luật Hà Nội ngày 3 tháng 4 năm 2102 ở Hà Nội.
Xin chú ý vào lời phát biểu!
Kính thưa ngài Trưởng Khoa,
Thưa quý vị,
Thưa quý vị,
Rất cám ơn lời mời của trường đại học Luật Hà Nội. Đây là vinh dự và
niềm vui lớn lao cho tôi khi được phát biểu trước quý vị ở đây, tại
trung tâm cho Pháp Luật Đức của trường.
"Never change a winning team" -mối quan hệ giữa người Đức với hiến
pháp của mình -tức bộ Luật Cơ Bản- có thể diễn tả bằng câu châm ngôn có
xuất sứ trong lĩnh vực thể thao này một cách khá tốt, theo ý của tôi.
Bởi vì từ hơn 6 thập niên qua, từ khi bắt đầu có hiệu lực cho đến nay,
bộ Luật Cơ Bản đã có nhiều sửa đổi nho nhỏ, nhưng rất ít các thay đổi
lớn. Mặc cho có nhiều thay đổi về thời cuộc, kể từ khi thành lập CHLB
Đức.
Ngay cả việc Thống nhất nước Đức - sáp nhập CHDC Đức vào CHLB Đức năm
1990 - cũng không dẫn đến một cải cách lớn lao nào. Thậm chí Thống Nhất
chẳng hề làm cho Hiến pháp của chúng tôi mất đi tên gọi mang tính tạm
thời " Luật Cơ Bản". Vì nếu gọi là "Hiến Pháp", thì có nghĩa là xác nhận
sự chia cắt nước Đức, điều chúng tôi không muốn.
Thưa quý vị,
Đối diện với những thay đổi nhiều mặt về xã hội, chính trị, kinh tế
và các mối tương quan trong cuộc sống bộ "Luật Cơ Bản" đã làm cho ta
ngạc nhiên về tính bền vững của nó. Những nguyên dẫn đến tính bền vững
này, trong bối cảnh đang có một cuộc thảo luận về thay đổi hiến pháp ở
Việt Nam là điều đáng làm cho quý vị ở đây quan tâm.
Để hiểu được sự thành công của "Luật Cơ Bản", ta hãy nhìn vào sự ra
đời của nó: năm 1948 -tức là 3 năm sau khi kết thúc Thế Chiến Thứ Hai -
việc soạn thảo hiến pháp cho nhà nước phần Tây nước Đức được bắt đầu.
Một giải pháp cho toàn nước Đức, tức cho cả phần Đông đang dưới sự
kiểm soát của Liên Xô, vào năm 1948 là không tưởng, vì nước Đức bị chia
đôi về chính trị đã là một thực tế. Tây Đức nằm dưới sự kiểm soát của
Mỹ, Anh và Pháp. Đông Đức dưới sự chiếm đóng của Liên Xô.
Sự hình thành của Bộ Luật Cơ Bản trải qua nhiều giai đoạn: trước hết
một hội nghị soạn ra một dự án Hiến Pháp tương lai cho Tây Đức, dựa
theo truyền thống của một nhà nước liên bang, bao gồm một chính quyền
Trung Ương với các thành viên là Tiểu Bang có chính quyền, cơ quan lập
pháp và tòa án riêng.
Vài tháng sau khi công việc sơ bộ quan trọng của hội nghị lập hiến
hoàn tất, nó được đưa ra thảo luận trong hội đồng nghị viện, bao gồm các
đại diện từ các nghị viện tiểu bang thuộc vùng chiếm đóng phía Tây.
Ngày 23 Tháng 5 năm 1949 Luật Cơ Bản được ban hành, và nước Cộng Hòa Liên Bang Đức chính thức ra đời.
Công việc soạn thảo Luật Cơ Bản chịu ảnh hưởng trực tiếp và dấu ấn
của 2 kinh nghiệm lịch sử: nền cộng hòa Weimar và nền chuyên chính quốc
xã.
Nhà nước dân chủ Đức đầu tiên tồn tại trong khoảng thời gian từ 1918
đến 1933. Vì Hiến Pháp của nó được soạn thảo và thông qua tại Weimar,
thời kỳ này cũng được gọi là nền cộng hòa Weimar. Hiến Pháp đế chế của
Weimar bộc lộ một số điểm yếu trong thực tại, ví dụ vị trí có nhiều
quyền lực của tổng thống đế chế, đã dẫn đến việc thâu tóm quyền lực của
Hitler sau này, hoặc quyền phán quyết hạn chế của tòa bảo hiến.
Gây dấu ấn đậm hơn bài học từ nền cộng hòa Weimar khi soạn thảo Luật
Cơ Bản là kinh nghiệm của 12 năm dưới nền thống trị bạo lực của chế độ
quốc xã. Dưới ấn tượng của hàng triệu người chết vì khủng bố và chiến
tranh thì quyền cơ bản cần phải được khẳng định mạnh mẽ, để những chuyện
như thế không thể xảy ra một lần nữa.
Hiến pháp Weimar quả thật cũng có một danh mục khá đầy đủ về quyền cơ
bản, nhưng nó chỉ được xem như là một chương trình có kết cấu rời rạc.
Cái mà ngày nay người ta thường gọi là "soft law".
Ngược lại các quyền căn bản trong Luật Cơ Bản được đặt lên đầu bộ
luật và trao cho các công dân quyền được khiếu kiện nhà nước. Bởi vậy
điều 1, khoản 3 của Luật Cơ Bản ghi rõ: " Các quyền cơ bản sau đây có
giá trị áp dụng trực tiếp và ràng buộc quyền hạn của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp".
Để thực thi được các quyền căn bản được ghi trong danh mục của Luật
Cơ Bản, một tòa án hiến pháp độc lập được tạo ra. Cơ quan này, tòa án
hiến pháp liên bang, bản thân nó cũng được ghi rõ trong Bộ Luật Cơ Bản.
Đây là một tòa án độc lập về nhân sự và ngân sách, chịu trách nhiệm diễn
giải về Luật Cơ Bản và thậm chí có thể phán quyết các điều luật là
không hợp lệ.
Thưa quý vị,
Những bài học được rút ra trong quá trình lập hiến chắc chắn đã góp
phần làm Bộ Luật Cơ Bản, cho đến hôm nay, bị thay đổi rất ít. Những thay
đổi - như việc tái thành lập quân đội (Tây) Đức vào năm 1952 và quy
định mới trong trường hợp khẩn cấp trong những năm 60 - là những ngoại
lệ. Gần như không có các yêu cầu đòi hỏi phải thay đổi cấu trúc Bộ Luật
Cơ Bản một cách then chốt.
Điều này thậm chí đúng cho cả giai đoạn sau khi thống nhất đất nước
vào năm 1990. Vào thời điểm đó đã có một ủy ban hiếp pháp đồng nhất gồm
cả hai bên được thành lập, có nhiệm vụ tìm hiểu khả năng cải thiện Bộ
Luật Cơ Bản.
Có 2 khuyến nghị của ủy ban này được chấp nhận: bảo vệ môi trường
được ghi vào là mục tiêu quốc gia và điều 3, điều quy định quyền bình
đẳng giữa nam và nữ được bổ sung. Trong đó giờ đây ghi rõ: " Nữ Giới
bình đẳng vói Nam Giới. Nhà nước thúc đẩy việc thực thi quyền bình đẳng
Nam Nữ, gây tác động nhằm xóa bỏ các thua thiệt của phụ nữ hiện còn tồn
tại."
Tiếp theo là quá trình phát triển để hội nhập vào châu Âu đã đưa đến
những thay đổi trong Bộ Luật Cơ Bản. Một ví dụ là điểm 16 GG, hạn chế
việc cấm dẫn độ một công dân Đức sang một quốc gia khác (trong khối EU).
Những thay đổi hiến pháp gần đây nhất chứa đựng các từ khóa "cải cách
chính sách liên bang I" và "giảm nợ". Ở đây trước tiên là thay đổi lại
sự phân bố thẩm quyền, trách nhiệm giữa liên bang và tiểu bang. Đặc
biệt, quyền lập pháp bị thay đổi đôi chút, làm giảm bớt các trường hợp
cần có đồng thuận giữa Thượng viện và đại diện tiểu bang ở cấp liên bang
cho một điều luật.
Tiếp theo năm 2009 đã ban hành cái gọi là " giảm nợ " để tìm cách
chặn lại việc nợ quốc gia đang tăng lên và để bảo đảm sự ổn định lâu dài
của kinh tế Đức. Ở đây những khả năng của liên bang và tiểu bang thông
qua các khoản vay để tài trợ cho ngân sách của mình bị giới hạn một cách
đáng kể. Và như vậy nước Đức đã có thể phản ứng nhanh chóng trước những
thách thức của cuộc khủng hoảng tài chính-và nợ toàn cầu.
Song song với những điểm thay đổi nêu trên, những phán quyết của Tòa
Án Hiến Pháp Liên Bang rất quan trọng cho Hiến Pháp của chúng tôi được
tiếp tục phát triển. Những phán quyết này đã đạt được nhiều quan tâm,
ưng thuận của công chúng trong phần lớn các trường hợp. Nó là nền tảng
cho thành công và sự chấp thuận cao độ của dân chúng với Bộ Luật Cơ Bản.
Để hiểu được ý nghĩa của Tòa Án Hiến Pháp Liên Bang đối với thực
trạng Hiến Pháp Đức, việc xem xét bốn loại thủ tục pháp lý quan trọng
nhất của Tòa là rất có ích, những cái mà tôi muốn giới thiệu ngắn gọn
với quý vị ở đây. Đó là:
- Thủ tục giải quyết tranh chấp (quyền hạn, trách nhiệm) giữa các cơ quan công quyền,
- Thủ tục kiểm định việc vi hiến một cách trừu tượng và cụ thể, cũng như là
- Thủ tục giải quyết khiếu kiện hiến pháp (của cá nhân).
Nhiệm vụ tiêu biểu của Tòa Án Hiến Pháp Liên Bang là giải quyết các
tranh chấp giữa các cơ quan công quyền. Trong đó cơ quan hiến định và
các cơ quan khác được trang bị quyền hạn riêng thông qua Luật Cơ Bản
tham gia tranh chấp với nhau về quyền hạn và nghĩa vụ của mình theo hiến
pháp. Tòa án sẽ hành động như là "trọng tài" giữa các cơ quan công
quyền, nếu như một cơ quan khiếu nại về một cơ quan khác đã vi phạm
"luật chơi" được ghi trong hiến pháp.
Trường hợp sau đây minh họa cụ thể: các đại biểu của Hạ Nghị Viện Đức
có quyền đặt câu hỏi, nhằm phục vụ cho chức năng giám sát của quốc hội
đối với chính phủ. Nếu như chính phủ liên bang trả lời câu hỏi của đại
biểu không đầy đủ, thì đại biểu này có thể đưa vấn đề ra trước Tòa án
hiến pháp liên bang đòi tòa xác định việc chính phủ vi hiến, vi phạm
luật, như thế vị đại biểu này đã thực thi quyền của mình.
(còn tiếp)