Lê Xuân Khoa
Thưa các anh chị,
Gần đây, tôi được đọc trên diễn đàn sci-edu hai bài viết rất tâm
huyết của anh Nguyễn Trung trong hai tuần liên tiếp. Bài thứ nhất là “Thư ngỏ gửi lãnh đạo Việt Nam”
về vấn đề sửa đổi Hiến pháp, nhấn mạnh vào sự cần thiết phải “cải cách
chính trị triệt để và toàn diện” và khẳng định đây là “cơ hội cuối cùng”
để xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ. Bài thứ nhì, “Câu chuyện Myanmar”,
kể lại cuộc chuyển đổi của Myanmar từ độc tài sang dân chủ trong hoà
bình, ổn định, để cuối cùng nêu lên câu hỏi: Myanmar làm được, tại sao
Việt Nam ta không làm được?
Thật ra, cựu đại sứ Nguyễn Trung không phải là người duy nhất lên
tiếng báo động và kêu gọi giới lãnh đạo kịp thời thức tỉnh để có thể bảo
vệ chủ quyền và phát triển đất nước. Nhiều nhân sĩ, trí thức khác, cả
trong lẫn ngoài nước, cũng đã thẳng thắn cảnh báo vả đóng góp ý kiến tâm
huyết qua những kiến nghị hay thư ngỏ. Anh Nguyễn Trung đã có hơn một
lần tham gia vào những nỗ lực chung đó, gần đây nhất là ký tên trong số
72 người đầu tiên đề nghị một hiến pháp dân chủ thay thế bản hiến pháp
1992.
Ở đây, tôi đặc biệt nhắc đến hai bài viết mới của anh Trung là vì
trong bài đầu, anh đã đúc kết rành mạch những ý kiến chung về nhu cầu
cấp bách phải thay đổi Hiến pháp và thiết lập một thể chế dân chủ pháp
trị, và trong bài thứ hai, anh đã nêu ra trường hợp Myanmar như một mô
hình chuyển hoá về chính trị và phát triển có thể áp dụng cho Việt Nam.
Chúng ta không cần phải phân tích thêm những chính sách sai lầm tai
hại của nhà cầm quyền về đối nội và đối ngoại để chứng minh cho sự cần
thiết phải cải cách chính trị triệt để và toàn diện. Hiển nhiên là từ
hội nghị Thành Đô năm 1991 đến nay, Bắc Kinh càng ngày càng có điều kiện
thuận lợi để từng bước lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải, lũng đoạn nền
kinh tế và thực hiện mưu toan Hán hoá dân tộc Việt Nam. Trong khi đó,
tình trạng suy thoái xã hội về mọi mặt và nạn tham nhũng trong toàn bộ
hệ thống cai trị ở Việt Nam đã trở nên trầm trọng vô phương cứu chữa.
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã không còn che dấu được chủ trương dựa vào
Trung Quốc đề duy trì quyền lực và lợi ích cùa cá nhân, gia đình và bè
phái. Mọi lời tuyên bố bảo vệ độc lập và chủ quyền, mọi hành động tăng
cường phòng thủ, đều cho thấy đó chỉ là những màn hỏa mù, những thủ đoạn
lừa dối nhân dân và dư luận thế giới, trái ngược với thực tế là nhượng
bộ Trung Quốc và đàn áp những biểu hiện yêu nước của nhân dân.
Vì chủ quan tin ở khả năng khuất phục được nhân dân như đã có kinh
nghiệm đối với những ý kiến đóng góp cho các Đại hội 10 và 11 cũng như
mọi kiến nghị khác của nhân sĩ, trí thức, lần này lãnh đạo Đảng lại đưa
ra bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp và kêu gọi nhân dân góp ý để cuối cùng
bản Hiến pháp chính thức vẫn sẽ là bản dự thảo của Đảng. Lãnh đạo Đảng
chủ quan đến độ chính thức khẳng định mục đích sửa đổi Hiến pháp 1992 là
muốn cho nhân dân “phát huy quyền làm chủ” và “thể hiện ý chí, nguyện
vọng của nhân dân, thậm chí “nhân dân có thể góp ý về tất cả các nội
dung trong Dự thảo Hiến pháp, kể cả ‘Điều 4’, không có gì là cấm kỵ.”
Không ngờ tình hình đã hoàn toàn đổi khác. Bản Kiến nghị của 72 người
đến hôm nay đã có gần 7.000 người tham gia. Nhiều nhóm công dân khác
cũng lên tiếng, đặc biệt là nhóm “Công dân Tự do”, bắt đầu với 1.000 chữ
ký của những người thuộc những lớp tuổi khác nhau, đòi hỏi không chỉ
môt hiến pháp dân chủ mà còn phải thật sự thi hành những quyền tự do dân
chủ của mỗi người dân. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đại diện cho tiếng
nói của hàng triệu giáo dân, cũng vừa công bố thư gửi Uỷ ban Dự thảo
Hiến pháp, nêu rõ mâu thuẫn căn bản giữa sự độc tôn của đảng cầm quyền
và chủ nghĩa Mác-Lê trong bản Dự thảo với quyền con người trong bản
Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân Quyền mà Việt Nam đã ký kết. Lá thư của HĐGM
cũng nhấn mạnh là cần phải thực thi những quyền tự do căn bản của người
dân, như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo. Rõ ràng là phong trào dân
chủ đang lan rộng để trở thành một khối áp lực của nhân dân mà chế độ
độc tài sẽ chỉ có hai lựa chọn: hoặc nhượng bộ để thay đổi thể chế trong
hoà bình, hoặc chống lại bằng võ lực để một mất một còn.
Trước những phản ứng bất ngờ của nhân dân, lãnh đạo Đảng CSVN đã
hoảng hốt và vội vã tìm cách ngăn chặn sự lan rộng của phong trào dân
chủ. Cả Tổng Bí thư và Chủ tịch Quốc hội đều quên đi những khẳng định về
quyền làm chủ và tự do góp ý của nhân dân để kết tội những góp ý này là
“suy thoái tư tưởng, đạo đức”, là “chống lại đảng, chống lại chính
quyền… phải kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn”. Một cuộc đối đầu giữa
chính quyền và nhân dân sẽ không thể tránh được trừ khi có những bộ óc
tỉnh táo trong bộ máy lãnh đạo thuyết phục được đa số chấp thuận đối
thoại với các đại diện của nhân dân để giải quyết thoả đáng vấn đề sửa
đổi hiến pháp và cải tổ chính trị.
Việt Nam và mô hình Myanmar
Từ ngày lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi được khỏi bị giam giữ tại
nhà ngày 13.11.2010 và sau khi cựu Tướng Thein Sein chính thức nhậm chức
Tổng thống ngày 30.03.2011, quốc gia Myanmar đã có một loạt cải cách êm
đẹp từ độc tài sang dân chủ. Kết quả quan trọng nhất là:
1. Hoà giải dân tộc bằng việc phóng thích tù nhân chính trị qua nhiều
đợt liên tiếp. Tổng thống Thein Sein kêu gọi mọi người bất đồng chính
kiến ở trong và ngoài nước cùng chung tay xây dựng đất nước.
2. Nhìn nhận và hợp tác với “Liên minh Quốc gia vì Dân chủ” (NLD), đảng đối lập của bà Aun Sang Suu Kyi.
3. Tổ chức bầu cử bổ sung dân biểu với 35 đảng tham gia trong đó đảng
NLD chiếm 42 trên 46 ghế và bà Suu Kyi trở thành một lãnh tụ đối lập có
uy tín được Tổng thống Thein Sein tiếp đón và đánh giá bà có thể trở
thành tổng thống.
4. Bãi bỏ cơ quan kiểm duyệt và ban hành quyền tự do thông tin báo chí.
5. Đặt lợi ích quốc gia lên trên hết bằng quyết định hủy bỏ hợp đồng
thủy điện Myitsone 3,6 tỷ USD đã ký với Trung Quốc để bảo vệ môi trường
sinh thái của nhân dân.
6. Mời trí thức chuyên gia mọi ngành làm tư vấn cho chính phủ, lắng
nghe và thực hiện những đề nghị cải cách và phát triển của họ.
7. Phát triển kinh tế bằng cách bớt nhờ cậy vào Trung Quốc và tạo
điều kiện cho các quốc gia phát triển đầu tư. Trong khi Hoa Kỳ vá Âu
châu đang chuẩn bị, Nhật đã tiên phong giúp Myanmar thanh toán nợ nần và
đổ tiền vào các dự án đầu tư mới ở xứ này.
Câu hỏi của anh Nguyễn Trung, “Myanmar làm được, tại sao Việt Nam ta
không làm được?” cũng là niềm trăn trở của nhiều người đang tìm một giải
pháp thích hợp cho Việt Nam. Tất nhiên hoàn cảnh mỗi nước một khác,
nhưng mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia và xây dựng dân chủ thì không thể
nào khác được. Lãnh đạo Việt Nam cũng thường nói đến những mục tiêu ấy
nhưng không làm hay cứ lúng túng không biết làm thế nào cho khỏi thành…
tự sát. Họ quên mất rằng nếu nhất định không làm thì sớm muộn gì cũng sẽ
là tự sát mà thôi. Như vậy, vấn đề là giải quyết cách nào cho thích
hợp, hoà bình và khả thi trong trường hợp Việt Nam.
Trước hết, hãy xem xét những điểm khác nhau giữa Việt Nam và Myanmar.
Mặc dù cùng có bản chất là độc tài toàn trị, chế độ quân phiệt của
Myanmar không phát xuất từ một đảng chính trị có tổ chức, có cơ sở lý
thuyết, kỷ luật chặt chẽ, kinh nghiệm đấu tranh và gốc rễ quốc tế lâu
đời như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, đảng cộng sản Việt Nam ngày
nay đã không còn có khả năng tuyên truyền và ảnh hưởng của một đảng cách
mạng dưới ngọn cờ giải phóng đất nước và đem lại tự do, hạnh phúc cho
toàn dân. Ngày nay, trước mắt nhân dân và những đảng viên thật lòng yêu
nước, đảng cách mạng đã suy thoái, biến chất thành một đảng cầm quyền
độc tài, tham nhũng, đối xử tàn ác với nhân dân, phục tùng Trung Quốc để
bảo vệ sự tồn tại và lợi ích của bè phái. Khác với Việt Nam, lãnh đạo
Myanmar không lệ thuộc Bắc Kinh và hiểm họa Trung Quốc không phải là
nguy cơ trước mắt.
Ngoài ra, về biểu hiện cụ thể, có ít nhất ba điểm khác biệt rất hiển nhiên giữa hai chế độ:
1. Việt Nam không có nhiều đảng chính trị như Myanmar, nhất là những
đảng đối lập như National League for Democracy (NLD) hay Democratic
Voice of Burma (DVB).
2. Việt Nam không có lãnh tụ đối lập như Aun Sang Suu Kyi.
3. Việt Nam không có lãnh đạo cầm quyền sáng suốt và dũng cảm như Thein Sein.
Dù sao, sau hơn nửa thế kỷ bị lừa dối và bóc lột, sự bất mãn của nhân
dân ngày càng chồng chất đã gần chạm tới mức “báo động đỏ” cho chế độ.
Thái độ hốt hoảng và những lời răn đe của lãnh đạo trái với những lời
hứa hẹn ban đầu chỉ làm gia tăng cường độ chống đối. Người dân đã không
còn sợ hãi. Trong đa số thầm lặng đã có thêm những tiếng nói dũng cảm
của những khuôn mặt mới có hiệu ứng dây chuyền. Tuy nhiên, trong một đất
nước không có đảng đối lập và lãnh tụ đối lập có uy tín, một cuộc đối
đầu gay go giữa dân chúng và nhà cầm quyền sẽ khó lòng tránh khỏi hỗn
loạn và đổ máu. Vài ngày trước đây, Tiến sĩ Nguyễn Quang A đã tuyên bố
cần phải có đảng đối lập. Nhưng dưới một chế độ mà không một tổ chức độc
lập nào được phép hoạt động, dù chỉ làm từ thiện hay nghiên cứu khoa
học, việc thành lập đảng chính trị không thể thành tựu nếu không có
quyết tâm và những bước chuẩn bị thực tế và khả thi.
Hãy bắt đầu bằng một nhóm nhỏ không chính thức, gồm những công dân
yêu nước và cấp tiến, đại diện cho những thành phần cách mạng lão thành,
nhân sĩ, trí thức, tôn giáo, văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, sinh
viên, nông dân, công nhân, quân đội nhân dân... Đây là bước đầu của sự
hình thành một mạng lưới công dân cùng chung một mục đích mặc dù vẩn có
thể có những suy nghĩ và cách tiếp cận khác nhau, mầm mống của một xã
hội dân chủ đa nguyên, đa đảng. Nhóm đại diện này sẽ khởi xướng phong
trào dân chủ của toàn dân. huy động và phối hợp các tiềm lực trong đa số
thầm lặng để có một tư thế mạnh đối thoại với nhà cầm quyền về lộ trình
dân chủ hoá. Những trí thức chủ động “Kiến nghị 72” cần đảm nhận trách
nhiệm thành lập nhóm đại diện các thành phần kể trên. Nhóm đại diện này
có thể sẽ bầu ra những chức vụ điều hành. Sinh hoạt theo lề lối dân chủ
phải tuyệt đối tôn trọng. Đây chỉ là những gợi ý sơ khởi cần được những
người chủ động xem xét và hoạch định sát với thực tế.
Đây là cơ hội và thời điểm thích hợp nhất cho trí thức thi hành sứ
mệnh lịch sử. Những khuyến cáo, kiến nghị hay thư ngỏ cần thiết lúc ban
đầu nay cẩn được chuyển sang hành động. Cho đến nay, đa số chuyên gia và
trí thức hàn lâm vẫn chỉ có những cuộc hội thảo thiên về nghiên cứu
những vấn đề của đất nước, hay chỉ nói cho nhau nghe những lời phê phán,
công kích những sai lầm của chế độ. Nhưng trước những chính sách độc
đoán, bất chính và bất nhân của chế độ, trước tư cách bất xứng của những
người lãnh đạo cao nhất nước, lòng bất mãn và tức giận của trí thức,
ngay cả những người hiền lành nhất, đã tăng lên rất cao. Đã đến lúc trí
thức sẽ đứng lên tham gia vào phong trào dân chủ của toàn dân, đòi hỏi
nhà cầm quyền phải thực thi quyền con người, hoà giải với những công dân
yêu nước, cải cách chính trị triệt để và toàn diện để có thể huy động
được sức mạnh của dân tộc trong sứ mệnh bảo vệ chủ quyền và phát triển
đất nước.
Kết quả mong đợi nhất là chính quyền bỗng thức tỉnh, chấp thuận đối
thoại với nhóm đại diện của nhân dân và sẽ mời họ tham gia vào việc
thiết lập một lộ trình dân chủ hoá trong hoà bình, ổn định. Nếu chẳng
may, lãnh đạo Đảng nhất định quay lưng lại nhân dân thì hãy tưởng tượng
cuộc chiến giữa một số lãnh tụ độc tài, tham nhũng và 90 triệu nhân dân
yêu nước, yêu tự do sẽ đem lại kết quả thế nào.
* * *
Là một người đang có cuộc sống tự do và hạnh phúc ở nước ngoài, tôi
cảm thấy không đủ tư cách nhận định về vai trò của nhân sĩ, trí thức ở
trong nước, nhất là lại có những lời lẽ khích động. Nhưng vì đã có nhiều
dịp trao đổi thân tình, trực tiếp hay gián tiếp, với nhiều thân hữu
thuộc mọi lớp tuổi, còn ở Việt Nam hay đã ra nước ngoài, tôi không thể
không viết ra những cảm nghĩ của mình trước hiện tình đất nước, nhất là
sau những góp ý xây dựng của nhân dân và phản ứng thiếu tỉnh táo của mấy
nhà lãnh đạo.
Xin quý anh chị vui lòng thông cảm. Tôi tạm dừng bút nhưng không quên
xác nhận một quan điểm đã được đa số bạn bè chia sẻ là việc thay đổi
tình hình chính trị ở Việt Nam là việc làm của người trong nước, còn
người ở bên ngoài chỉ có thể đóng vai trò hỗ trợ.
Thân kính,
L.X.K.