Diên Vỹ chuyển ngữ
14.03.2013
Bốn mươi năm trước vào ngày 14 tháng Ba, tôi và những bạn tù ở Bắc
Việt Nam vận những bộ quần áo dân sự rẻ tiền được cung cấp cho 108 người
chúng tôi nhân dịp này, bước lên những chiếc xe buýt đến sân bay Gia
Lâm ở ngoại ô Hà Nội. Một chiếc máy bay không vận C-141 lớn màu xanh lá
cây đang đợi để đưa chúng tôi về Căn cứ Không quân Clark ở Philippines.
John McCain dẫn đầu toán tù binh chiến tranh được trả tự do tại Hà Nội ngày 14 tháng Ba 1973.
Tại sân bay, chúng tôi xếp hàng theo thứ tự ngày chúng tôi bị bắn
rơi, và chúng tôi cố gắng giữ tác phong quân sự trước những chiếc máy
quay phim đang chạy và một đám đông người Việt đang ồn ào quan sát chúng
tôi. Các sĩ quan Mỹ và Việt ngồi tại một chiếc bàn, mỗi người cầm một
bảng danh sách tù binh.
Mỗi khi một tù nhân bước lên, đại diện cho cả hai phía quân sự đọc
tên của anh ta. Họ gọi tên tôi, và tôi bước một bước đến chiếc bàn và
đưa tay chào. Một sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ chào đáp, mỉm cười và bắt tay
tôi rồi đưa tôi đi qua đường băng, bước lên cầu để lên máy bay.
Tôi trở về với hai người bạn thân nhất của mình là hai sĩ quan Không
quân Bud Day và Bob Craner, những người mà tôi đã noi gương và tìm được
nguồn động viên trong suốt năm năm. Vài phút sau khi cất cánh, viên phi
công thông báo là chúng tôi đang “ướt chân”, có nghĩa là chúng tôi đang
bay qua Vịnh Bắc Bộ và đi vào không phận quốc tế. Mọi người đều reo
mừng.
Tôi không nghĩ rằng bất cứ ai trong chúng tôi sẽ có lần quay lại đất
nước mà chúng tôi từng mong muốn rời khỏi từ rất lâu. Thật khó để nói
câu giã từ tại căn cứ Clark, và buổi từ biệt của chúng tôi thật xúc
động.
Chúng tôi hứa với nhau là sẽ giữ liên lạc thường xuyên, điều mà chúng
tôi đã làm trong nhiều năm qua, cho đến khi cái chết bắt đầu làm thưa
thớt dần đội ngũ của chúng tôi. Chẳng có cảm giác bùi ngùi khi chúng tôi
rời Việt Nam, và chúng tôi cũng chẳng muốn làm quen lại với họ trong
tương lai.
Nhưng hoá ra tôi lại quay lại Việt Nam. Tôi đã quay lại nhiều lần sau
khi chiến tranh chấm dứt. Đất nước này thật đẹp, và người Việt là những
chủ nhà mến khách. Đa số các chuyến thăm của tôi là công tác chính
thức: tìm kiếm Tù nhân Chiến tranh/Mất tích, giúp điều phối quá trình
bình thường hoá quan hệ giữa hai quốc gia và thúc đẩy quan hệ tương lai
nhằm phục vụ quyền lợi của cả hai nước.
Tôi đã kết bạn với những người từng là kẻ thù của mình. Tôi trở nên
gắn bó với một nơi mà tôi từng từ bỏ. Tôi vui mừng thấy rằng Mỹ và Việt
Nam đã có rất nhiều tiến triển trong việc xây dựng một mối quan hệ hiệu
quả, hai bên cùng có lợi trên đống tro tàn của cuộc chiến tranh vốn từng
là một thảm hoạ cho người dân của cả hai nước.
Hôm nay, những oán hận xưa đang được thay thế bởi những hy vọng mới.
Con số người Mỹ đến thăm Việt Nam tăng lên mỗi năm - bao gồm cả ba Tổng
thống Hoa Kỳ lúc còn nhậm chức - họ bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp thiên nhiên
tuyệt vời và con người dễ gần. Thương mại song phương tăng 80 lần so với
năm 1994, khi Hoa Kỳ vừa bỏ lệnh cấm vận. Việc này đã làm lợi cho người
dân của cả hai quốc gia và giúp cho hàng triệu người Việt tự thoát được
nghèo đói.
Tương tự, quan hệ quốc phòng của hai nước đã có bước biến chuyển dài
mà chẳng thể nào tưởng tượng nổi trong một thập niên trước. Quân đội
chúng ta tập luyện chung, và Vịnh Cam Ranh lần nữa lại là nơi cập bến
của Hải quân Hoa Kỳ. Thật thế, chiếc tàu John McCain, khu trục hạm Hải
quân mang tên cha và ông tôi, vừa rồi đã cập bến thăm Đà Nẵng, điều này
cho thấy rằng nếu bạn sống đủ lâu, mọi việc đều có thể xảy ra.
Tuy nhiên, khi đề cập đến những giá trị mà người Mỹ trân quý - tự do,
nhân quyền và pháp quyền - những hy vọng lớn nhất của chúng tôi dành
cho Việt Nam đa phần vẫn chỉ là hy vọng. Chính quyền Hà Nội vẫn giam giữ
và ngược đãi những người chống đối ôn hoà, các nhà báo, blogger và
những nhóm dân tộc và tôn giáo thiểu số vì các lý do chính trị.
Họ vẫn sử dụng những luật lệ khắc nghiệt như Điều luật 88, tạo cho
nhà nước quyền lực vô tận trước người dân. Chính quyền vẫn chưa có được
những hành động nhỏ nhặt nào để đưa Việt Nam ngang hàng với những tiêu
chuẩn nhân quyền đúng đắn được quốc tế công nhận như thông qua và thực
hiện Hiệp định Chống Tra tấn.
Trong một bưóc đi tích cực gần đây, chính quyền Việt Nam đã bắt đầu
một cuộc đối thoại với tổ chức Ân xá Quốc tế và ra dấu hiệu rằng Việt
Nam cuối cùng sẽ có thể sửa đổi hiến pháp của mình để bảo vệ quyền lợi
dân sự và chính trị tốt hơn cho người dân. Tôi thực sự hy vọng thế - vì
trong khi những quan hệ tốt đẹp có thể được xây dựng trên nền tảng của
quyền lợi chung, như quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam hiện tại, quan hệ
đối tác tốt nhất và bền vững nhất luôn dựa trên một nền tảng của những
giá trị chung. Trong thử thách này, cũng như với những thử thách khác mà
hai quốc gia từng cùng nhau vượt qua, tôi mong muốn mình vẫn là một
người bạn tận tuỵ của Việt Nam.
Hai nước chúng ta đã từng có một quá khứ khó khăn và đau thương.
Nhưng chúng đã không gắn bó nhau bằng cái quá khứ ấy, và giờ đây chúng
đang đi trên con đường hàn gắn lại tình bạn thật sự . Tương lai đầy hứa
hẹn này là một trong những ngạc nhiên lớn nhất và thoả nguyện nhất trong
đời tôi, điều mà tôi đang muốn sẽ làm tôi sửng sốtt hơn nữa trong những
năm tới.